Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

ÔN THI TỐT NGHIỆP 2013-2014: SÓNG (TÀI LIỆU THAM KHẢO)



SÓNG – XUÂN QUỲNH
CÂU HỎI:  Trình bày những nét chính về đặc điểm thơ Xuân Quỳnh.
- Xuân Quỳnh (1942- 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Quê ở tỉnh Hà Tây. Xuất thân trong một gia đình công chức. Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa sau chuyển sang sáng tác vh.
- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
*Đặc điểm thơ Xuân Quỳnh: Thơ bà  là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường.

CÂU HỎI:  Nêu ý nghĩa nhan đề bài thơ “Sóng”.
-Sóng là hình tượng đẹp của thiên nhiên. Nhiều nhà thơ thường mượn hình tượng sóng để biểu đạt những sắc thái tình cảm của mình: buồn mênh mang, vui bất tận, hay tình yêu ào ạt của con người…
-Trong bài thơ “Sóng”: sóng là hình tượng xuyên suốt dọc bài thơ, sóng vừa là sóng biển vừa  gắn liền với sức sống và vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ - những con sóng tình xôn xao, rạo rực trong trái tim người phụ nữ khi yêu, vừa là biểu tượng cho tình yêu nồng ấm, dào dạt, tha thiết, bền bỉ và vĩnh hằng.
CÂU HỎI: Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Sóng” – XQ và cho biết ý nghĩa văn bản
*Hoàn cảnh sáng tác (...).
*Ý nghĩa văn bản: Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thuỷ, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
CÂU HỎI : Nêu nội dung và nghệ thuật cơ bản của bài thơ Sóng”.
- Nội dung: Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả những sắc thái, cung bậc (nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ luôn chân thành, khát khao hạnh phúc.
- Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Hai hình tượng Sóng và Em đều là phân thân của chủ thể trữ tình. Hai hình tượng này có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau, có khi hoà nhập làm một để cùng hướng về một tình yêu lí tưởng. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa các hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.

CÂU HỎI: Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình tượng sóng và mối quan hệ giữa hai hình tượng “sóng” và “em” trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.
- Tựa đề bài thơ là “Sóng”. Đây cũng chính là hình tượng trung tâm của bài thơ. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” (Nguyễn Du). Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Có thể nói, cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao, rạo rực được khơi dậy trong trái tim một người phụ nữ khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
- Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em” (“em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là “em”). “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình  yêu. Cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
                            
CÂU HỎI: Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài “Sóng” của Xuân Quỳnh.
* Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ “Sóng” được nhà thơ Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). In trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ viết trong thời kì kháng chiến chống Mĩ rất ác liệt trên cả nước, văn học thời đại thường âm vang cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam còn bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hầu như chỉ viết về tình yêu và khát vọng hạnh phúc đời thường nhưng nó không hề lạc lõng bởi nó khẳng định tình yêu, hạnh phúc luôn rất cần thiết, nó là động lực lớn lao giúp con người vượt lên mọi thử thách.
- Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
* Chủ đề: Qua hình tượng “sóng”, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

NỘI DUNG BÀI THƠ:
1.                     Âm điệu của bài thơ.
- Đây là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn đó là nhịp của những cơn “sóng lòng” nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc trong trái tim người phụ nữ.
- Âm điệu đó được tạo nên bởi 2 yếu tố: thể thơ 5 chữ; cách tổ chức ngôn ngữ, cách ngắt nhịp. Các yếu tố này được dùng linh hoạt phóng túng đã gơị lên nhịp sóng biển (và cả sóng lòng) khi dịu êm nhẹ nhàng, khi dồn dập dữ dội.
2.                     Ý nghĩa hình tượng sóng.
- Ý nghĩa hình tượng sóng bao trùm cả tác phẩm, ở lớp nghĩa thực nó được miêu tả cụ thể sinh động, với nhiều trạng thái mâu thuẫn, thậm chí là trái ngược nhau. Ở lớp nghĩa biểu tượng sóng như có hồn, có tính cách, có tâm trạng, biết giải bày bộc bạch, diễn tả sự phong phú và phức tạp nhiều khi đầy mâu thuẫn trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu: lúc bồng bột sôi nổi, lúc kín đáo sâu sắc.
- Hình tượng “sóng” và “em” đang cài, tồn tại song song soi sáng cho nhau, thể hiện cái tôi trữ tình của tác giả.
3.                     Phân tích các khổ thơ.
a/ Sóng và tình yêu trong trái tim phụ nữ.(khổ 1,2)
Đây là trạng thái đặc biệt trong tâm hồn người con gái đang yêu.
“Dữ dội và dịu êm
….
Sóng tìm ra tận bể”
- Từ những đặc tính đối lập của sóng (dữ dội, ồn ào, dịu êm, lặng lẽ), t/g đã diễn tả trạng thái khác thường phong phú, phức tạp, đối lập trong trái tim đang yêu: có lúc khao khát cháy bỗng, có lúc tha thiết nồng nàn.
- Mặt khác, trong suy niệm của Xuân Quỳnh, thì muốn hiểu bản chất của tình yêu của người thiếu nữ (phụ nữ), người thanh niên (đàn ông) phải biết vượt qua những gì nông nổi ồn ào bên ngoài để khám phá bản chất dịu êm, khiêm nhường bên trong tâm hồn người phụ nữ.
- Vượt qua quan niệm về tình yêu bình thường quanh quẩn, sóng theo sông xuôi dòng ra biển lớn, hòa nhập cùng đại dương dể hiểu hết chính bản thân mình. Đó là quan niệm sâu sắc, nghiêm túc về tình yêu của nhân vật trữ tình.
- Cũng từ “sóng” nhà thơ phát hiện ra một quy luật: sóng muôn đời không thay đổi thì khát vọng tình yêu của con người cũng là vĩnh hằng, nhất là ở người trẻ tuổi.
b/ Sóng và nguồn gốc của tình yêu.(khổ 3,4)
 Người con gái muốn phân tích lí giải tình cảm của mình nên:
“Trước muôn trùng sóng bể
Khi nào ta yêu nhau”
Câu hỏi « tình yêu có từ đâu, vì sao ta yêu nhau ? »  làm cho người con gái băn khoăn muốn lí giải nhưng bất lực. Xuân Diệu - ông hoàng của thơ tình - cũng từng ngỡ ngàng, băn khoăn :“làm sao cắt nghĩa được tình yêu ?”. Xuân Quỳnh củng như vậy, nhưng tình yêu như sóng biển, như mây trời làm sao hiểu hết đuợc.
Những câu phủ định, những câu móc xích,  nhịp thơ nhanh bộc lộ sự dễ thương và khẳng định sự huyền bí của tình yêu: « Sóng bắt đầu từ gió…khi nào ta yêu nhau. »
c/ Sóng và nỗi nhớ của em, tình yêu của em.( khổ 5,6,7)
Suy tư về sóng, về tình yêu, người con gái tìm được những điều tương đồng :
« Con sóng dưới lòng sâu
………
Dù muôn vời cách trở. »
-Tình yêu gắn với nổi nhớ khi xa cách. Con sóng dù ở dưới sâu hay trên mặt nước cũng muốn được trở về với bờ. Em cũng vậy, nổi nhớ thường trực ngập tràng cỏi lòng có khi thức lẫn khi ngủ, cả trong tiềm thức lẫn trong ý thức.
- Nhà thơ cố ý nói ngược cách nói thông thường – xuôi vào Nam ngược ra Bắc - mà chẳng hề bận lòng. Tình yêu tạo ra một phương mới mà chẳng ai thấy lạ - « phương anh. »  Vì sao? Vì những nghịch lý ở trên là vẻ bề ngoài, là cách nói che giấu bên trong một hạt nhân rất phù hợp với tâm lý của người đang yêu, đang xa, đang nhớ và đang muốn đốt trái tim mình trong ngọn lửa tình yêu. Xuôi hay ngược, Bắc hay Nam không quan trọng. Kim la bàn trong trái tim em luôn quay về hướng có anh.
- Tin vào tình yêu, nhà thơ biết dù khó khăn, nghiệt ngã, thử thách, nhưng tình yêu đích thực rồi sẽ cập bến bờ hạnh phúc:
“Trăm ngàn con sóng nhỏ
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh quan sát rất tinh tế, nên phát hiện ra « sóng » ở nhiều tầng. Nhà thơ còn dùng dùng biện pháp đối (xuôi ngược Nam Bắc) và hình ảnh mới mẻ (trong mơ còn thức), để thể hiện được nổi nhớ mãnh liệt, sôi nổi và chân thành.
d/ Sóng và khát vọng tình yêu của em. (khổ 8,9)
Xuân Quỳnh viết bài thơ này khi đã có một lần đổ vỡ trong tình yêu. Cho nên, dù tình cảm sôi nổi, mãnh liệt, nhà thơ vẫn không thể không có những nỗi lo âu:
“Cuộc đời tuy dài thế
…Mây vẫn bay về xa”
-  Ngẫm về các quy luật của tự nhiên -biển dù rộng nhưng vẫn có bờ, cuộc đời tình yêu không thể vĩnh hằng, mây không thể ngừng trôi- Xuân Quỳnh nhận ra rằng : hạnh phúc cũng thế, nhiều khi mong manh dễ vỡ, cho nên lời thơ như một nỗi suy tư, trăn trở.
- Cũng như bao người khác, Xụân Quỳnh cũng khao khát sự vô cùng, sự tồn tại mãi mãi của hạnh phúc với cuộc đời:
Làm sao được tan ra
…Để ngàn năm còn vỗ”
- Đời người có giới hạn, nhưng tình yêu thì có thể vô cùng. Vậy nên, Xuân Quỳnh khao khát gởi mình vào hình tượng sóng  để hoá thân vào tình yêu, vào biển lớn. Vì con người có thể mất đi, nhưng tình yêu là vĩnh hằng, sóng kia “ngàn năm còn vỗ”.  Câu thơ thể hiện một khát vọng đầy nữ tính: muốn hoà nhập cái riêng nhỏ bé vào cái chung bao la rộng lớn để tình yêu bất diệt. Đó cũng là khát vọng sống hết mình với tình yêu của tác giả khi ý thức được sự hữu hạn của cuộc đời.
KẾT LUẬN
- Bài thơ “Sóng” tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng là một tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh.
- Trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữ sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ nồng nàn, tha thiết, chung thủy, muốn vượt qua thử thách của thời gian, giới hạn của đời người để có tình yêu cao đẹp, hạnh phúc lớn lao.
- Thể thơ 5 chữ ngắt nhịp linh hoạt, gieo vần khá tự do thể hiện được nôi dung trên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét