Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

ÔN THI TỐT NGHIỆP 2013-2014: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (TÀI LIỆU THAM KHẢO)



AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

CÂU HỎI: xuất xứ và chủ đề bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?.
* Xuất xứ:
- Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết năm 1981 in trong tập sách cùng tên.
- Tác phẩm có 3 phần, đoạn trích nằm phần thứ nhất.
* Chủ đề: Từ những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp bằng vốn kiến thức phong phú về địa lý, lịch sử, văn hóa…., tác giả đã khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, kinh thành Huế, cũng là vẻ đẹp của quê hương, đất nước.

TÓM TẮT NỘI DUNG VĂN BẢN:
Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại ,có nhiều ghềnh thác bí ẩn.Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già, như một cô gái di gan phóng khoáng và gan dạ, cá tính mạnh mẽ.
Lúc về đồng bằng ,sông Hương thơ mộng như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cnahas đồng châu Hóa đầy hoa dại  .Dòng sông mềm như tấm lùa uốn cong ,cảnh đẹp như bức tranh có đường nét,hình khối « trôi đi giũa hai dãy đồi sừng sững như thành quách ». Nước Sông Hương có vẻ đẹp biến ảo : « sớm xanh,trưa vàng ,chiều tím» do phản chiếu sắc màu vẻ đepk hai bên bờ sông.
Khi vào thành phố Huế, sông Hương mềm mại dịu dàng, dòng nước chảy trôi thật chậm như một điệu Slow dành riêng cho Huế. .Sông Hương « đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ».Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó.Sông Hương mang vẻ đẹp vừ trữ tình,vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có dòng sông nào như thế.
Và trước về với biển sông Hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vương  của nàng Kiều với Kim Trọng.

PHÂN TÍCH.
Tác giả coi Hương giang là biểu tượng của tất cả những gì mang vẻ đẹp của cảnh sắc và con người cố đô.
1/ Vẻ đẹp sông Hương được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên. Sông Hương được coi là một sáng tạo tuyệt vời của tạo hóa.
a/  Ở thượng nguồn, sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn:
- Ở đây, nó mang vẻ đẹp đầy ấn tượng: là ”bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn.
- Cũng có lúc Hương giang ”dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
- Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương sôi nổi nồng nàn ”như một cô gái Di-gan phóng khóang và man dại”, có bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
=> Bằng những liên tưởng độc đáo, những so sánh và nhân hóa mạnh mẽ, tác giả đã miêu tả được cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng của sông Hương, biến sông Hương thành một sinh thể hết sức sinh động, với vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính.
b/ Ở đồng bằng:
- Ra khỏi rừng già, ”sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa”.
- Trong cái nhìn tinh tế và tài hoa lãng mạn của tác giả, sông Hương khi chảy về đồng bằng là một bức tranh đẹp có những đường khối sống động hài hòa. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương là ”người đẹp nằm ngủ mơ màng...”
- Vẻ đẹp ấy thể hiện ở sự chuyển dòng liên tục ”uốn mình theo những đường cong thật mềm” để tìm đường đi tới thành phố. Đó là những khúc quanh vượt qua bao địa danh mang màu sắc văn hóa Huế: ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, ...chân đồi Thiên Mụ.
-   Vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng, SH có lúc ”mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi mang vẻ đẹp biến ảo như tấm phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố : ”sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; có khi mang vẻ đẹp trầm mặc lặng lẽ chảy dưới những ”rừng thông u tịch” với những lăng mộ kiêu hãnh âm u của các vua chúa triều Nguyễn; lại có khi nó đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa, đi ”giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.”
- Bằng vốn hiểu biết phong phú cùng sự quan sát tinh tế và dùng nhiều biện pháp so sánh, nhân hóa, bút pháp kể và tả, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một con sông Hương đẹp bởi sự phối cảnh giữa nó và thiên nhiên xứ Huế.
c/ Khi vào thành phố Huế.
- SH vui tươi, chậm rãi, mềm mại êm dịu ”như một tiếng ”vâng”không nói ra của tình yêu.”
- Hình dạng sông uốn lượn một cánh cung rất nhẹ, như một vầng trăng non.
- Nằm ngay gữa lòng thành phố yêu quý của mình, SH cũng như sông Xen của Pa-ri, sông Da-nuýp của Bu-đa-pét, ..Nhưng trong cách miêu tả của tác giả, SH được nhìn nhận ở nhiều góc độ.
+ Nhìn bằng con mắt hội họa, SH và những chi lưu của nó tỏa đi khắp các phố thị tạo thành những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô mà ”không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”.
+ Bằng cảm quan âm nhạc thì SH khi đi qua thành phố như điệu slow chậm rãi, êm dịu, ”ngập ngừng như muốn đi muốn ở..như vấn vương của một nỗi lòng.”
+ Với cái nhìn đắm say của một chàng trai đa tình thì SH là người tình dịu dàng và chung thủy, ”nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối.”
- Việc dùng ngôn ngữ uyển chuyển giàu chất thơ, chất nhạc cùng nhiều so sáng sáng tạo cho thấy tình cảm gắn bó, say mê, tự hào của tác giả với dòng SH, với Huế.
d/ Khi ra khỏi thành phố Huế.:
SH mang vẻ đẹp gợi cảm của một người con gái chung tình: khúc quanh này thật bất ngờ biết bao ,mang “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. “Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”, “trở lại tìm Kim Trọng... để nói một lời thề trước lúc về biển cả.
2/ Vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hóa, lịch sử
a/  SH là dòng sông của thi ca và âm nhạc.
- Tác giả gắn SH với âm nhạc cổ điển Huế:
+ SH đã ”trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.
+ Tác giả đã liên tưởng đến Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nguyễn Du từng bao năm lênh đênh trên dòng sông này và từng diễn tả bản nhạc ”Tứ đại cảnh ” của Huế qua tiếng đàn của Kiều:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
- Tác giả cho rằng có một dòng sông thi ca về SH, ”dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Tản Đà tinh tế khám phá ra sự thay màu thật bất ngờ của dòng sông ”dòng sông trắng – lá cây xanh. Đó là vẻ đẹp hùng tráng ”như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát.; là ”nỗi quan hòai vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan. Và ở trong thơ Tố Hữu, SH ”khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn
b/ Nhìn từ góc độ lịch sử, SH là dòng sông của những chiến công hiểu hách.
- Thuở còn là dòng sông biên thùy xa xôi của Đại Việt, nó có tên là Linh Giang, và ”đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc.”
- Thế kỉ XVIII, SH soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ và sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX rồi đi vào thời đại CMT8 năm 1945  bằng những ”chiến công rung chuyển”, và chiến dịch Mậu Thân 1968.
- Tác giả kết luận rất xác đáng rằng SH là dòng sông của sử thi: khi nghe lời gọi của tổ quốc, ”nó biết hiến đời mình làm một chiến công”, nhưng trở về với cuộc sống bình thường, ”nó lại là một người con gái dịu dàng của đất nước.”
3 / Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng sáng tạo đầy tài hoa của tác giả.
Tác giả nhìn SH như một cô gái Huế.
- Có lúc là ”cô gái Di-gan phóng khóang và man dại.”
- Có lúc là thiếu nữ tài hoa, ”dịu dàng mà sâu sắc đa tình, kín đáo lẳng lơ nhưng rất mực chung tình”.
- Có lúc SH ”như cô dâu Huế ngày xưa trong màu áo điều lục”. Đấy cũng chính ”là màu sương khói trên SH....ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”.
  KẾT LUẬN.
1/ Nội dung: Bài kí là những phát hiện về vẻ đẹp của dòng SH. Xét đến cùng, những phát hiện ấy bắt nguồn từ tình cảm tha thiết đến say đắm của tác giả đối với cảnh và con người xứ Huế.
2/ Nghệ thuật: Bài kí thể hiện đặc trưng nổi bật trong lối viết kí của tác giả:ngôn ngữ trong sáng, phong phú, giàu hình ảnh; dùng nhiều so sánh, ẩn dụ, liên tưởng; phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hóa, lịch sử và chất trữ tình lãng mạn.

ÔN THI TỐT NGHIỆP 2013-2014: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (TÀI LIỆU THAM KHẢO)



                             NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
Câu hỏi
            Anh / chị hãy trình bày những nét chính về đặc điểm con người nhà văn Nguyễn Tuân
a - Một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. (Lòng yêu nước của Nguyễn Tuân thể hiện theo một cách riêng: Yêu tiếng Việt; trân trọng nâng niu nền văn hoá dân tộc, từ những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Tú Xương, Tản Đà…đến những điệu hò, những danh lam thắng cảnh của đất nước…)
b - Có ý thức cá nhân mạnh mẽ. (Ông chủ trương khẳng định cái tôi một cách cao độ. Cho nên, với Nguyễn Tuân, sáng tác văn chương trước hết là để khoe tài, để chơi ngông với đời. Trong lối sống, ông ưa phóng túng, thích tự do, không chấp nhận những khuôn khổ chật hẹp…).
c- Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. (Ông am hiểu nhiều ngành văn hoá nghệ thuật. Vì thế ông có thể vận dụng một cách sáng tạo những thủ pháp, kĩ thuật của những ngành văn hoá nghệ thuật đó khi viết văn. Ông cũng là diễn viên kịch có tài).
d- Một cây bút quí trọng và đề cao nghề văn. (Ông được coi là mẫu mực về tinh thần lao động nghệ thuật. Ông quan niệm: “Ở đâu có đồng tiền, ở đó cái đẹp không tồn tại”…).
 Biểu điểm: Mỗi ý 0,5 đ

CÂU HỎI:  Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.

•   Hoàn cảnh sáng tác:
    Tác phẩm in trong tập “Sông Đà” (1960) gồm 15 bài tuỳ bút, một bài thơ ở dạng phác thảo.
         Đây là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp nhất là chuyến đi năm 1958.
          Vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc với dòng sông Đà và những con ngừơi Tây Bắc, những con ngừơi lao động giản dị mà tài hoa trí dũng đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt để Nguyễn Tuân viết tuỳ bút Sông Đà. Đó cũng chính là “chất vàng mười trong tâm hồn vùng Tây Bắc" mà nhà văn kiếm tìm được khi ông hoàn toàn hoà nhập với cuộc sống chung của nhân dân,
            (Xét về hoàn cảnh chủ quan: tác phẩm vốn là cách khám phá cái đẹp của Nguyễn Tuân vẫn là cách thay đổi thực đơn cảm giác của ông, song cái đẹp đó không còn chỉ dừng lại ở sự thưởng thức của cái tôi cá nhân phục vụ cho cá nhân mà mở rộng biên độ đến với cuộc đời, đến với người lao động bình thường. Trước đây văn chương ông thu vào độ hẹp, giờ toả ra độ rộng)
"Người lái đò sông Đà" là một bài tuỳ bút đầy chất thơ, là một công trình khảo cứu công phu và điều tra xác thực về Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã vận dụng những tri thức sâu rộng của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để cung cấp cho người đọc những hiểu biết bổ ích lí thú vè ngọn nguồn lai lịch, địa thế hiểm trở của con sông Đà cũng như phương thức vượt thác leo ghềnh, công cuộc chinh phục thiên nhiên của người lao động Tây Bắc.

•   Chủ đề: Ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là vẻ đẹp của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Qua đây ta cảm nhận được tình yêu đất nước say đắm, thiết tha, một sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần cù, công phu và tài hoa, uyên bác trong việc dùng chữ nghĩa của nhà văn.

TÓM TẮT NỘI DUNG VĂN BẢN:
Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông đà vừa hung bạo trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng, kiêu sa  như người phụ nữ kiều diễm Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân,  nắng thu: « Mùa xuân dòn xanh ngọc bích,mùa thu lừ lừ chín đỏ» .Dọc theo sông Đà,có lắm thác nhiều ghềnh,có đá dựng vách thành,có đá tảng,đá hòn bày thế thạch trận,tạo nên cửa sinh cửa tử.Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ,đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với thân hình cao to,nước da rám nắng.Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm,từng gắn bó với dòng sông Đà,hiểu được tính khí của nó.Ông thuộc lòng từng con thác lớn,thác nhỏ,từng vách đá,luồng nước,từng cửa sinh cửa tử do thế thạch trận tạo nên .Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù, gan dạ đưa con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm.Ông đã đưa nhiều chuyến hàng về xuôi an toàn để góp phần vào xây dựng cuộc sống.
Sau khi vượt sông Đà ,ông lái đò trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình,ông neo thuyền chổ khúc sông bình lặng và nấu ống cơm lam,bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh.

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ.
Con sông Đà trong bài tùy bút của NT như một nhân vật với hai nét tính cách đối lập.
1/ Tính hung bạo.
- Sông Đà, trước hết, được nhà văn NT giới thiệu bằng cái vẻ khác thường, độc đáo: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.Nghĩa là mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ riêng sông Đà chảy về hướng bắc.
- Vẻ hung bạo, kì vĩ, hiểm trở của Sông Đà được tạo thành từ nhiều yếu tố.
+ Ở thượng nguồn, “vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Đá bờ sông thì “dựng vách thành”, có nhiều khúc sông phải “chính ngọ mới có mặt trời”. Đó là những so sánh táo bạo và độc đáo. Khi hành trình qua những đọan sông này, con người mới cảm nhận được vẻ hùng vĩ, ghê rợn, vẻ lạnh lẽo âm u của sông, của núi.
+ Sông Đà còn có những cái hút nước “thở và kêu như cửa cống bị sặc”,  “như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu”. Mặt hút “ xóay tít đáy..quay lừ lừ như những cánh quạ đàn”. Nó khiến nhiều thuyền đi qua đó bị “trồng cây chuối ngược, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông” và cuối cùng là “tan xác” ở đọan sông dưới. Lối nhân hóa, thậm xưng, so sánh của tác giả khiến sông Đà hiện lên như một con thủy quái với những tiếng kêu và hình hài kì dị đang đe dọa con người.
+ Chưa hết, dòng sông này còn dữ dằn với những ghềnh thác hung dữ. Có quãng sông dài “hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Câu văn với ngôn ngữ giàu giá trị tạo hìnhcác vế câu trùng điệp có âm hưởng dạt dào gợi sự vô tận của ghềnh thác sông Đà. Âm thanh tiếng thác nước được miêu tả ở nhiều cung bậc: “óan trách, van xin, khiêu khích .., có lúc rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng”. Bằng những liên tưởng phong phú, tác giả đã giúp người đọc hình dung ra sự dữ đội và mạnh mẽ của dòng sông này. Tiếng thác chẳng khác gì một trận đại hồng thủy mang theo sự tàn phá vô cùng lớn.
+ Nó còn là một dòng sông lắm mưu nhiều kế, nhất là việc bày thạch trận để tiêu diệt thuyền bè của con người với “đá tướng, ba hàng đá quân, tiền vệ, hậu vệ, tuyến giữa”.
* Thạch trận một: bọn đá “hất hàm, thách thức, mặt nước ùa vào bẻ gãy cán chèo, sóng thì đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Sông Đà như một võ sĩ ra đòn hiểm với đối thủ.
* Thạch trận thứ hai: “thay đổi binh pháp” và quy luật phục kích. Sông Đà “tăng nhiều cửa tử, cửa sinh thì nằm phía hữu ngạn”. Sóng thác không ngớt khiêu khích, reo hò. Nó như mụ phù thủy tìm cách tiêu diệt con người.
* Thạch trận thứ ba: “sắp đặt bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa”. Nó như một kẻ xảo quyệt, tàn ác, là kẻ thù của người TB.
=> Sông Đà hiện lên như một công trình tuyệt vời của tạo hoá nhưng hung dữ và hiểm ác.
Tác giả dùng nghệ thuật miêu tả tỉ mỉ, so sánh độc đáo, nhân hoá hợp lí. Đó là một bằng chứng cho thấy sự am tường thiên nhiên TB, biết vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực vào văn học, lòng yêu quê hương đất nước của nhà văn.
2/ Tính cách trữ tình.
-Về dáng vẻ sông Đà:
+ Quan sát từ trên máy bay ,tác giả thấy dòng sông mềm mại uyển chuyển :”sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời TB. Đó là
một vẻ đẹp kiều diễm của người con gái Tây Bắcqua cách cảm nhận, so sánh độc đáo của N.Tuân
+ Nó lại còn rất gợi cảm: “sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải.”
Về màu sắc, nước sông Đà luôn thay đổi: “mùa xuân xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông lừ đừ chín đỏ..”. Khi cao hứng, nó lại mang màu sắc của “nắng tháng ba Đường thi”. SĐ như một mĩ nữ biết thay đổi theo mùa để làm đẹp cho mình.
- Bờ sông Đà thì hoang vu vắng lặng: “hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích”,”tịnh không một bóng người”. Cảnh vật hai bên sông thơ mộng, trữ tình: một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm”. Hai bên sông Đà cũng hịên diện cảnh trù phú màu mỡ với “ một nương ngô nhú lên..những nõn búp”. Những hình ảnh trên gợi lên cái non tơ, tràn đầy sức sống, tô điểm cho vẻ đẹp trữ tình, sự giàu đẹp của sông Đà.
- Tâm trạng của tác giả: xúc động, ngây ngất, sống dậy những hòai niệm “hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê..”. Nhà văn còn muốn “đề thơ vào sông nước”, và ước mơ trong tương lai, sẽ có những chuyến tàu lửa lên TB.
 III/ KẾT LUẬN:
- Như vậy, sông Đà được nhà văn nhìn từ nhiều góc độ: từ trên cao xuống, từ trong rừng ra và khi ở trên sông. Tác phẩm mang phong cách nghệ thuật độc đáo của NT: ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, kiến thức uyên bác về nhiều ngành, dùng nhiều biện pháp tu từ. Nhờ đó, tác giả đã khám phá trọn vẹn những nét vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng trữ tình của phong cảnh sông Đà.
- Qua bài tùy bút, ta thấy được sự am hiểu sâu sắc, tình yêu và sự đắm say của Nguyễn Tuân đối với thiên nhiên TB.

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ
I/ GIỚI THIỆU.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn giàu cá tính sáng tạo, và là một đại diện tiêu biểu của VHVN hiện đại. Ông có nhiều trang viết tài hoa, độc đáo.
- Tùy bút « Người lái đò sông Đà » rút từ tập « Sông Đà »,  là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.
- Bằng vịêc miêu tả người lái đò, Nguyễn Tuân khẳng định : chất vàng mười của vùng Tây Bắc chính là người lao động cần mẫn, hiên ngang.
II/ PHÂN TÍCH .
1/ Hình dáng:
- Nghề nghiệp khắc nghiệt đã in dấu lên những nét đặc biệt của ông đò: Tay lêu nghêu, chân khuỳnh khuỳnh, giọng ào ào như tiếng nước ..”. “Cái đầu quắc thước” đặt trên thân hình cao to gọn quánh như chất sừng mun. Nếu bịt cái đầu bạc lại thì sẽ lầm tưởng là một chàng trai.
- Chỉ bằng vài nét, NT đã tạc lên bức chân dung ông lái đó, qua đó cũng ngầm hé lộ nội tâm, phong thái, bản lĩnh của một con người lao động tài hoa, khoẻ mạnh.

2 /  Đó là một nghệ sĩ tài hoa trong những lần chèo thuyền vượt thác.
- Tư chất tài hoa, tài tử của ông lái đò được nhà văn tô đậm qua cuộc giao tranh với dòng sông và những bãi đá ngầm. Đây là một cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thần sông, thần đá với binh hùng tướng mạnh của sóng nước và thác đá, và một bên là người lái đò với con thuyền gồm sáu tay chèo. Quan sát trận thủy chiến, ta mới thấy dụng ý của tác giả: miêu tả cái hung bạo, dữ dội của Đà giang là để tạo ra một đối thủ xứng đáng với tầm vóc của con người.
- Ở thạch trận thứ nhất,” thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, còn cửa sinh duy nhất nằm ở sát bớ trái”. Luồng sóng hung dữ “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí, nó còn nhằm vào người cầm lái mà “đánh đòn tỉa”. Trong thế trận ấy, ngừơi lái đò bĩnh tĩnh nắm giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất lên sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc trúng đòn hiểm, “mặt méo bệch” vì đau, ông vẫn tỉnh táo chỉ huy các bạn chèo đưa con thuyền vào đúng luồng sinh.
- Ở thạch trận thứ hai, thần sông thay đổi chiến thuật và sơ đồ phục kích. Nhưng, ông đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” nên đã nhận ra cạm bẫy của bọn thủy quân nơi ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác, nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò “ghì cương lại, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Cuối cùng, ông đã đưa thuyền vượt qua “cả một tập đòan cửa tử” làm cho mặt bọn đá hung hăng phải “xanh lè thất vọng”.
- Còn ở thạch trận thứ ba, cửa tử ít hơn nhưng hai bên đều là luồng chết, “cửa sinh này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” . Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm ác của chúng . Ông điều khiển con thuyền để nó như con tuấn mã hiểu ý chủ,  phóng thẳng  thuyền chọc thủng cửa giữa đó”. Con thuyền “vun vút xuyên nhanh qua hơi nước”.
=> Miêu tả ba lần phá vòng vây này, NT đã tạo nên những màn thủy chiến hào hùng mà nhân vật trung tâm là người lái đò. Ông như một viên tướng tài ba, chiến đấu gian lao trên chiến trường sông Đà bằng tài năng của một người lao động – nghệ sĩ.
è Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
3/  Ông cũng là người lái đò có tâm hồn nghệ sĩ mà rất bình dị, khiêm tốn.
- Sau mỗi lần vượt thác là ông cùng mọi người "ung dung" đốt lửa trong hang đá , “nướng ống cơm lam bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, chẳng ai bàn thêm về chiến thắng vừa qua”.
- Cái phi thường đã thành cái bình thường, chất nghệ sĩ hòa với chất chiến sĩ trong mặt trận lao động. Đó là chất vàng mười của con người TB.
=> Nghệ thuật miêu tả tinh tế, sinh động. Nguyễn Tuân nhân hoá với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo, bất ngờ. Hình ảnh sông Đà hung bạo là đối thủ xứng tầm  của con người. Và ông lái đò là chân dung người lao động tuyệt vời, hiên ngang bất khuất -lãng mạn trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên.
III/ KẾT LUẬN:
- Người lái đò sông Đà là một hình ảnh tuyệt đẹp về người lao động vừa có tư thế phẩm chất của người anh hùng, vừa mang phong cách người nghệ sĩ. Đây là nhân vật mà nhà văn gửi gắm biết bao tình cảm yêu mến và trân trọng.
- Tác phẩm mang phong cách nghệ thuật độc đáo của NT: ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, kiến thức uyên bác, các biện pháp tu từ phát huy tối đa khả năng biểu đạt, sự vật, con người được phát hiện miêu tả ở phương diện cái đẹp.