BÀI : ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA
ĐIỀM
CÂU HỎI : Hoàn cảnh sáng tác, mục đích và chủ
đề đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm.
• Hoàn cảnh sáng tác:
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết năm 1971, hoàn thành ở chiến khu Trị -Thiên – một điểm nóng của chiến trường miền Nam thời chống Mĩ, lúc này cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng và sôi nổi trên hai miền Nam Bắc – chúng ta đang có nhiều thắng lợi nhưng còn nhiều thử thách, sứ mệnh Đất nước rất mong manh.
* Mục đích: Tác phẩm thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
- Đoạn trích Đất nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
• Hoàn cảnh sáng tác:
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết năm 1971, hoàn thành ở chiến khu Trị -Thiên – một điểm nóng của chiến trường miền Nam thời chống Mĩ, lúc này cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng và sôi nổi trên hai miền Nam Bắc – chúng ta đang có nhiều thắng lợi nhưng còn nhiều thử thách, sứ mệnh Đất nước rất mong manh.
* Mục đích: Tác phẩm thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
- Đoạn trích Đất nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
* Chủ đề: Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo, linh hoạt hình thức thơ trữ
tình – Chính trị, vốn văn hóa dân gian, kiến thức về địa lí, lịch sử, đoạn
trích đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc, toàn diện về Đất Nước từ cội nguồn, sự
tồn tại và phát triển của Đất nước, cảm nhận Đất Nước từ các phương diện địa
lí, lịch sử, văn hoá – tâm hồn, tính
cách dân tộc, đồng thời còn khẳng
định sâu sắc tư tưởng Đất nước của nhân dân.
CÂU HỎI: Trình bày nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm?
- Nội dung: Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm qua nhiều phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa,… “Đất Nước” là sự hội tụ và kết tinh bao
công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra Đất Nước.
- Nghệ thuật:
+Kết hợp hài hoà chât chính luận và chất trữ tình, giọng điệu linh hoạt.
+Sử dụng sáng tạo thể thơ tự do, câu thơ co duỗi nhịp nhàng, linh hoạt thể
hiện được đầy đủ những cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
+Vận dụng sáng tạo, khéo léo, tài hoa những yếu tố của văn hoá, văn học dân
gian.
CÂU HỎI: Anh(chị) hãy trình bày ngắn gọn vị trí và
nội dung đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn
Khoa Điềm?.
-
Đoạn trích “Đất nước” được trích ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” .
- Đoạn thơ là những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên
nhiều bình diện ( chiều dài của lịch sử,chiều rộng của địa lý, bề dày của văn hoá,
phong tục…).Qua đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn : Đất nước là của
Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất nước.
NỘI DUNG VĂN BẢN:
1)
Cảm nhận riêng của tác giả về Đất Nước
-
Khác với những tác giả khác hay chiêm nghiệm đất nước bằng những hình tượng
hoành tráng kì vĩ, Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cách thể hiện rất tự nhiên và
bình dị:
“Khi
ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước có từ ngày đó”
- Cụm
từ “đã có rồi” nhằm khẳng định sự tồn tại hiển nhiên lâu đời là tất yếu của
đất nước. Đất có trước khi ta cất tiếng khóc chào đời.
-
Cách nói “ngày xửa ngày xưa” ta thường gặp trong phần mở đầu của truyện cổ
tích mà người mẹ, người bà hay kể cho ta nghe lúc nhỏ. Đất nước là kho tàng
đạo lí tốt đẹp mà dân ta gửi gắm trong truyện cổ tích.
- Đất
nước gắn với những phong tục tập quán tạo nên bản sắc dân tộc.
+
“miếng trầu bà ăn” → gợi nhớ sự tích trầu cau, một câu chuyện cảm động về
tình cảm vợ chồng chung thủy, tình anh em gắn bó. Đây cũng là hình ảnh “đầu
câu chuyện” khi xã giao và là vật không thể thiếu trong lễ hỏi cưới.
+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” là nét giản dị,
duyên dáng, đáng yêu của người phụ nữ Việt Nam
- Đất
nước hiện diện trong tình cảm thủy chung của cha mẹ: “cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”. Câu thơ gợi nhớ bài ca dao:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Trong
gian khó, đắng cay, cha mẹ sống với nhau bằng lối ứng xử giàu nghĩa, nặng
tình.
- Đất
nước lớn lên bằng quá trình chiến đấu chống ngoại xâm “Đất Nước lớn lên khi
dân mình biết trồng tre đánh giặc”. Cây tre là một hình tượng gắn với quá
trình dựng nước và giữ nước của người Việt. Khi xưaThánh Gióng nhổ tre đánh
giặc Ân. Còn trong thời hiện đại thì
“Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”(Thép
Mới). Vậy nên nhà thơ Nguyễn Duy thốt lên trong xúc động :
“Thân gầy guộc
lá mỏng manh
Mà sao nên lũy
nên thành tre ơi”
→ Cây
tre của Nguyễn Khoa Điềm gợi sự liên tưởng sâu xa. Bờ tre kết lại sẽ thành
lũy giữ nước, cây tre làm nhà, làm vật dụng sinh hoạt, làm mũi tên, hầm
chông, làm gậy đánh giặc.
- Đất
nước gắn với quá trình lao động cần cù, gian khó:
“cái kèo cái cột thành tên
… xay, giã,
giần, sàng”.
+
“Kèo”, “cột” là gỗ hoặc tre nói chung, khi nó được dùng làm nhà thì mới gọi
tên là kèo, là cột. Đó là sự sáng tạo của con người.
+
“Một nắng hai sương” là thành ngữ chỉ sự từng trải, khó nhọc của người lao
động.
+
Nhịp thơ ngắn, biện pháp liệt kê: “xay, giã, giần, sàng” nhằm cụ thể hóa
những công việc phải làm để có được hạt gạo cho đời.
=>
Có thể nói Nguyển Khoa Điềm đã đưa đất nước từ “thiên thư”, từ “một mối xa
thư đồ sộ”, từ “hai vầng nhật nguyệt chói lòa” ở trên trời, trở về với miếng
trầu của bà, mái tóc của mẹ, cây tre trước ngõ, mái nhà ta ở. Cái nhìn mới mẻ
ấy gợi sự xúc động cho người đọc. Về nghệ thuật, ta thấy tác giả ghi hoa hai
từ Đất Nước là để thể hiện sự trân trọng. Câu thơ xen kẽ dài ngắn, dễ bộc lộ
tình cảm tự nhiên theo dòng cảm xúc. Giọng thơ như lời tâm sự gần gũi, thân
tình. Ngôn ngữ dùng nhiều chất liệu văn học dân gian.
2)
Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương
diện
- Ở đoạn thơ này, tác giả trả lời cho câu hỏi: đất nước
là gì ?
“Đất là nơi anh đến trường
…
Làm nên
Đất Nước muôn đời”
a. Đất nước được cảm nhận ở chiều rộng không gian.
- Tác giả chia tách khái niệm “Đất” và “Nước” thành 2 yếu
tố để lí giải và suy tư
“Đất là nơi anh đến
trường
…
Đất Nước là nơi em
đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
+ Đất nước được nhìn bằng 1 cách cảm nhận thiêng liêng,
vừa có tính cá thể, vừa có tính táo bạo. Đất nước là không gian gần gũi “nơi
anh đến trường” , “nơi em tắm” . Đó là nơi gắn với kỉ niệm tuổi thơ trong kí
ức của mỗi người. Đó có thể là con đường với chiều dài bóng mát ; là mái
trường mến yêu chứa chan tình cảm bạn bè, thầy trò ; là những rung động
đầu đời với người bạn cùng lớp…
+ Trong mắt người trẻ tuổi, đất nước này còn gắn với 1
cõi đầy thơ mộng chứa bao kỉ niệm của tình yêu dịu ngọt : “nơi ta hò hẹn”,
“nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đôi lứa nào mà chẳng có một
không gian riêng dành cho nhau. Câu thơ gợi nhớ bài ca dao:
“Khăn thương nhớ ai
khăn rơi xuống đất
khăn
thương nhớ ai
khăn
vắt lên vai”
=> Đó là tình yêu chung thủy cuả người con gái. Như
vậy, ở những câu thơ trên, ta thấy tác giả cảm nhận đất nước qua tình cảm đôi
lứa, qua lòng thủy chung sâu sắc, không bao giờ thay lòng đổi dạ của người
phụ nữ Việt Nam.
- Xét ở phương diện địa lí, đất nước là núi cao, là biển
rộng sông dài:
“Đất là nơi …
… dân mình đoàn tụ”.
Nghĩa là theo tác giả, đất nước còn tồn tại ở lời ca
tiếng hát câu hò – những sản phẩm nuôi sống tâm hồn người Việt.
- Đó còn là không
gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam
→ Các điệp từ “là nơi” và việc chia tách 2 yếu tố “Đất”
và “Nước” làm cho hình tượng đất nước cụ thể gắn bó với từng người, vừa có ý
khái quát chủ quyền của đất nước.
b) Đất nước được cảm nhận theo chiều dài của lịch sử dân
tộc.
- Tác giả khẳng định nguồn gốc cao quý – con rồng cháu
tiên của dân tộc Việt:
“Đất là nơi chim về
…
trong bọc trứng”.
- Nhà thơ gợi lại truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng nhằm
nhắc nhở : cả dân tộc ta đều có chung cội nguồn. Do đó cần yêu thương, đoàn
kết với nhau trong mọi hoàn cảnh.
- Đất nước cũng gắn với
truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ:
“Hằng
năm an đâu làm đâu
cũng
biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
câu thơ gọi
nhớ bài ca dao:
“Dù ai
đi ngược về xuôi
Nhớ
ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Từ “cúi đầu” thể hiện sự
thành kính tri ân đối với người có công dựng nước. Hằng năm, dân ta thường về
đất tổ Phú Thọ để làm lễ giỗ tổ. Gần đây, nhà nước đã chính thức coi ngày 10
tháng 3 âm lịch là ngày quốc giỗ. Nhớ về ngày giỗ tổ, chúng ta cũng nhớ về
lời dặn của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nứơc, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ nước”.
=> NKĐ đã khéo dùng những
thần thoại, truyền thuyết tiêu biểu để gợi nhắc lại cội nguồn, hồn thiêng
sông núi trong tâm linh mọi người. Nó sẽ làm cho người gần người hơn trong
cuộc sống hằng ngày và trong cả công cuộc kháng chiến cứu nước.
c) Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước.
- Ở đọan thơ này, tác giả
cảm nhận ĐN trong đời sống hiện tại, trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng. Hiện tại ấy chính là cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
Vậy nên, tiếng nói của nhà thơ cũng là tiếng nói đầy trách nhiệm của thế hệ
thanh niên miền Nam thời ấy:
Trong anh và em hôm nay
.....................................
Làm nên đất nước muôn đời..
- Đất nước là núi
sông, là văn hóa xứ sở, là chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, là thành quả lao
động chiến đấu của bao người, trong đó có anh và em. Mỗi cá nhân là một thành
tố nhỏ, khi hàng triệu thành tố đó góp lại thì sẽ có thể tạo nên ĐN. Cho nên:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
......................................
Đất Nước
trong ta vẹn tròn to lớn.
Đây là ý thơ khá tự nhiên và độc đáo: đôi bạn trẻ yêu
nhau mà không nói chuyện riêng tư mà hướng về cộng đồng. “Cầm tay” là một
hành động thể hiện một tình cảm vừa thân ái vừa chan hòa. Cầm tay là đã hiểu
nhau, thương nhau, là nguyện gắn kết với nhau. Sự gắn kết của tình yêu đôi
lứa sẽ tiếp thêm sức mạnh cho ĐN, và ngược lại, ĐN cũng làm cho tình yêu ấy
vững bền hơn. Mà minh chứng rõ ràng nhất là khi “hai đứa cầm tay mọi người”
để thể hiện tình đòan kết, sự sẻ chia thì “ĐN vẹn tròn to lớn”. Ý thức cộng
đồng ấy đã làm cho tuổi trẻ ở đô thị miền Nam xuống đường tranh đấu để Huế -
Sài Gòn – Hà Nội được nối vòng tay lớn trọn dãy sơn hà. Các cụm từ “hài hòa
nồng thắm”, “vẹn tròn to lớn” thể hiện niềm ao ước, lòng tự hào của con người
khi được đóng góp công sức, tài năng cho ĐN, cho cộng đồng.
Tiếp theo, Đất Nước còn được hiện
lên trong sự kì vọng và niềm tin của nhà thơ vào triển vọng sáng tươi trong
tương lai :
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Thế hệ con cháu mai sau sẽ
tiếp bước ông cha “Gánh vác phần người
đi trước để lại” để xây dựng đất nước ta “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí
tuệ và bản lĩnh của những thế hệ mai sau trong hành trình đi tới “những tháng ngày mơ mộng”. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, đẹp ngoài
trí tưởng tượng về một Việt Nam văn minh, giàu mạnh. “Mai này” nghĩa là điều mơ ước, kì vọng ấy sẽ thành hiện thực
trong thời gian rất gần
Từ
những cảm nghĩ trên về Đất Nước, tác giả đã đi đến những suy nghĩ về trách
nhiệm của mỗi cá nhân :
Em ơi em Đất Nước là máu xương của
mình
... ...Làm nên Đất Nước muôn đời.
Những câu thơ
như một lời tự nhủ, tự dặn mình của nhà thơ và lớn hơn là của cả thế hệ lúc
bấy giờ ý thức về bổn phận đối với Đất Nước. Giọng thơ chân thành, tha thiết,
nhẹ nhàng như lời thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ người yêu. Em ơi em là tiếng gọi yêu thương với bao niềm vui sướng đang dâng
lên trong lòng. Những từ gắn bó, san
sẻ, hoá thân là biểu hiện của trách nhiệm, của lòng yêu nước. Phải biết gắn bó và san sẻ ... phải biết
hoá thân ... thì mới có thể Làm nên
Đất Nước muôn đời.
Tứ thơ rất đẹp. Đất Nước thân thương gắn bó với
mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất
Nước muôn đời”. Đoạn thơ còn đẹp vì sáng ngời niềm tin về tương
lai Đất Nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính
luận, chất trữ tình thể hiện một hồn thơ dạt dào cảm xúc và giàu chất suy
tư.
- Tác giả hướng suy tư vào
cội nguồn, vào sự kế thừa, tiếp nối của các thế hệ. Mỗi thế hệ phải truyền
lại tài sản tinh thần và vật chất cho thế hệ sau để làm nên đất nước.
- Tác giả kêu gọi mọi người
phải biết “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa
thân” để xây dựng đất nước.
=> Tác giả nhìn đất nước
ở nhiều góc độ nhưng giản dị và gần gũi đến nỗi nhìn vào đâu ta cũng thấy
bóng hình đất nước.
2) Tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân"
- Tư tưởng đất nước của nhân
dân thể hiện rõ ở câu:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của
nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Tác giả đã chứng minh tư
tưởng đó bằng hàng loạt những dẫn chứng, hình ảnh sự việc con người, câu
chuyện dân gian, những chứng tích, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng
cảnh, những tên làng, tên sông, tên núi.
+ Hòn núi Vọng Phu tạo nên cậu chuyện về
tình nghĩa vợ chồng, phản đối chiến tranh.
+ Hòn Trống Mái cũng là biểu
tượng của tình nghĩa vợ chồng đôi lứa.
+ Những ao, đầm lả những vết
chân ngựa thánh Gióng đánh giặc Ân.
+ Những ngọn núi quanh đền Hùng lại thành
cội nguồn của đất tổ.
+ Nhiều địa danh ghi nhớ
công ơn của người mở cõi: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.
Trong cách cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, mỗi địa danh, mỗi danh thắng của Đất Nước mình đều gắn liền với một lẽ sống của nhân dân: +Lẽ sống thuỷ chung, gắn bó của lứa đôi, của những cặp vợ chồng. +Tinh thần hiếu học. +Lòng kiên cường, bất khuất - căm thù quyết liệt khi Đất Nước có giặc ngoại xâm, khát khao hoà bình, độc lập. +Đạo lí "uống nước nhớ nguồn" +Tinh thần lạc quan, yêu mến cuộc sống lao động bình dị, trí tưởng tượng phong phú. ... -Nhà thơ còn có cái nhìn khái quát mà sâu sắc về không gian gần gũi mà thiêng liêng của Đất Nước: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta Bất kể nơi nào trên Đất Nước ta cũng mang dấu ấn bàn tay cha ông, những thế hệ nhân dân tiếp nối nhau dựng xây, gìn giữ Đất Nước. Nơi nào cũng ghi dấu dáng hình, cuộc sống, vẻ đẹp phong tục, văn hoá, ước mơ, niềm tin, bản lĩnh của Nhân Dân.
+ Nhà thơ đã khẳng định: Nhân dân chính là những
người làm ra Đất Nước. Họ là những chủ nhân đích thực của đất nước. Những câu thơ tự do được kéo dài rất phóng khoáng thể hiện rất rõ, đầy đủ những cảm xúc, suy tư của tác giả về Đất Nước. Những điệp từ, điệp cấu trúc câu, được sử dụng rất linh hoạt, thán từ... thể hiện rất rõ thái độ trân trọng, tự hào về vẻ đẹp của Đất Nước, tình yêu, sự kính trọng và lòng biết ơn đối với Nhân Dân.
- Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân trong trường
kì lịch sử, nhà thơ không nêu tên hay nhắc lại những chiến tích lừng lẫy của
những người anh hùng hữu danh mà chỉ chứng minh bằng những anh hùng vô danh:
“những cặp vợ chồng”, “ngươi học trò”, “người dân”, “người con gái con trai”:
"Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước ................................. Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước +Tác giả khẳng định: Nhân Dân là người làm nên lịch sử Đất Nước - đó là những người vô danh "không ai nhớ mặt đặt tên". Họ cũng là những con người bình dị, trong cuộc sống thời bình thì họ "cần cù làm lụng" chăm vén cho cuộc sống gia đình, nhưng khi Đất Nước có chiến tranh, những người con trai, những người trụ cột gia đình đã tự nguyện tham gia chống giặc, người phụ nữ nuôi dưỡng cha mẹ già, chăm dạy con thơ - trở thành hậu phương vững chắc cho người con trai chắc tay súng ngoài chiến trường. Và khi giặc đã đánh đến các vùng quê, đánh đến từng ngõ từng nhà thì những con người bình dị nhất ấy lại xác định rõ trách nhiệm của mình: "ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh" - họ đã "hoá thân cho dáng hình xứ sở" và "nhiều người đã trở thành anh hùng" - những người anh hùng nổi tiếng và những người anh hùng thầm lặng, vô danh.
- Tất cả nhân dân đã dạy chúng ta biết yêu thương, quý
trọng cuộc sống, biết kiên nhẫn và chờ đợi.
Nhân dân đã làm ra và gìn giữ, truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị văn hoá vật chất và tình thần: hạt lúa, ngọn lửa, tạo ưựng nền móng - cơ sở cho đời sau "trồng cây hái trái"; họ truyền tiếng nói của dân tộc cho con cháu, họ gìn giữ và phát triển phong tục, tập quán và nét đẹp văn hoá quê hương; họ dạy cho con :tinh thần, ý chí dân tộc, truyền thống dân tộc: chống ngoại xâm, đánh nội thù: Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng ...................................................... Có nội thù thì vùng lên đánh bại. =>Nhân Dân là người làm nên không gian địa lí, lịch sử Đất Nước, những giã trị văn hoá tinh thần và truyền thống Đất Nước, dân tộc từ những lẽ sống của mình. Những lẽ sống ấy được biểu hiện cụ thể trong đời sống tinh thần, biểu hiện rất cao trong ca dao, thần thoại: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi ........................................................ Đi trả thù mà không sợ dài lâu Nhà thơ đã mượn những ý thơ của ca dao biểu hiện đầy đủ những lẽ sống cao đẹp, đáng quý của Nhân Dân: say đắm và thuỷ chung trong tình yêu; quý trọng nghĩa tình và cuộc sống lao động; kiên cường, bất khuất và luôn có ý thức về cuộc sống hoà bình, chủ quyền dân tộc. -Kết thúc đoạn trích là hình ảnh dòng sông và câu hát điệu hò gợi vẻ đẹp tươi, hùng vĩ, trường tồn của Đất Nước, sự lạc quan, yêu đời, yêu cuốc sống lao động, chan hoà với thiên nhiên của Nhân Dân.
III/ KẾT LUẬN
Với thể thơ tự do, vận dụng linh hoạt,
nhuần nhuyễn, sang tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian; giọng điệu thơ có
sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc, đoạn thơ đã thể
hiện được những nét riêng, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi biểu dương tôn
vinh vai trò lịch sử, sức mạnh kì diệu của nhân dân trong suốt trường kì lịch
sử dân tộc.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét