Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG "VỢ NHẶT" - KIM LÂN



TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG “VỢ NHẶT” – KIM LÂN

1. Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và là tác phẩm được đánh giá rất cao trong nền văn học VN hiện đại – một trong số những truyện ngắn hay nhất trong kho từng truyện nagwns sau 1945. Cơ sở của sự đánh giá đó là tác phẩm này đã xây dựng tình huống truyện độc đáo và mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc.
- Tình huống của truyện ngắn này được thể hiện ngay trong nhan đề : “Vợ nhặt”. Nhan đề của truyện gợi ra cho người đọc nhiều suy nghĩ. Hai chữ Vợ nhặt nằm trong sự kết hợp lạ lùng giữa bi và hài, gợi ra trò đùa tai ác của số phận, nó báo hiệu sự pha trộn éo le, nghịch lí giữa một bên là cái vốn biểu tượng cho khát khao hạnh phúc của con người – vợ, với một bên là cái biểu tượng cho sự tầm thường, rẻ rúng – nhặt. Người vợ gắn với tổ ấm, gắn với gia đình mà có thể nhặt được như cái rơm cái rác ven đường, như một thứ chẳng có giá trị gì người ta bỏ rơi bên đường. Sự kết hợp bi hài và cảm động của nhan đề Vợ nhặt được thể hiện qua tình huống truyện độc đáo được xây dựng trong tác phẩm, người đọc nhận ra được chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
2.Phân tích
a. Tình huống truyện là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm. Tại sự kiện ấy, nhà văn làm sống dậy một tình thế bất thường, có tính chất éo le và gây bất ngờ trong các quan hệ giữa các nhân vật. Tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng mà nhà văn định gửi gắm cũng hiện hình khá trọn vẹn. Đối với nghệ thuật truyện ngắn, việc tạo ra một tình huống mới lạ, hấp dẫn, có giá trị đặc biệt  góp phần khẳng định thành công, giá trị của tác phẩm. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã tạo ra được một tình huống truyện vừa lạ lùng, vừa éo le lại cảm động. Đó là tình huống Tràng nhặt được vợ trong những ngày đói khủng khiếp, sự sống đặt bên bờ vực của cái chết. Một lần xe thóc của liên đoàn lên tỉnh, Tràng hò một câu vượt dốc cho đỡ mệt nhưng đã có một ngwof đà bà ra đẩy xe cho Tràng. Anh đã gặp alij người đà bà ấy trong một lần trả hàng xong, chị ấy đã gợi ý để được ăn, Tràng mời ngwofi đó ăn và chỉ qua một câu nói đàu mà chị ấy theo anh về làm vợ.`
b. Tình huống truyện trong Vợ nhặt là tình huống lạ lùng.
- Tình huống lạ lùng:
+ Trong hoàn cảnh cái đói, cái chết đang bao bọc, bủa vây, nhu cầu lớn nhất của con người là kiếm được cái miếng ăn để đảm bảo sự sống, để được tồn tại. Trong hoàn cảnh đó, nhu cầu về hạnh phúc gia đình gần như bị bỏ quên, nó khó có thể tồn tại được. Vậy mà anh Tràng lại lấy vợ, xây dựng hạnh phúc gia đình ngay trong bối cảnh tăm tối và đói khát đó.
+ Một người như Tràng – hội tụ rất nhiều yếu tố để anh ế vợ mà bỗng nhiên có vợ một cách dễ dàng. Anh xấu trai, cuộc sống nghèo khổ, bấp bênh… thế mà có vợ theo không.
- Ý nghĩa, tác dụng của cái lạ lùng: tạo ra tâm trạng ngạc nhiên cho tất cả mọi người trong xóm ngụ cư và gia đình:
+ Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy Tràng đưa người đàn bà lạ về. Họ đứng cả trong cửa bàn tán, hồ nghi vì chưa rõ, nhưng qua dáng vẻ thèn thẹn “hay đáo để” của người đàn bà thì họ hiểu ra nhưng vẫn rất ngạc nhiên. Vì  giữa lúc đới kém “không biết có nuôi nổi thân không” mà còn “rước cái của nợ đời về”. Họ phỏng đoán, họ lo lắng và vui mừng cho Tràng.
+ Bà cụ Tứ - mẹ Tràng ngạc nhiên vì con bà có vợ ngoài dự đoán của người mẹ nghèo, trong hoàn cảnh tăm tối này.
+ Ngay chính Tràng – người trong cuộc cũng ngạc nhiên, khi vợ anh ngồi trong nhà rồi, anh vẫn còn ngỡ ngàng “ra hắn đã có vợ rồi đấy ư” và đến sáng hôm sau thức dậy rồi, anh ấy còn chưa tin mình có vợ -“trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong một giấc mơ đi ra” – Anh Tràng ngạc nhiên trước hạnh phúc quá bất ngờ với anh.
c. Tình huống trong Vợ nhặt là một tình huống rất éo le, bất thường.
* Tình huống éo le, bất thường:
- Lấy vợ vốn là niềm vui, niềm hạnh phúc song hạnh phúc bình dị ấy lại diễn ra trong bối cảnh đói khát hiện tại: Tràng đưa người vợ nhặt về giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói, nắng thì đã tắt, chiều đã chạng vạng mặt người.
+ Con đường dẫn dâu về nhà phải đi qua xóm chợ chứa chất đầy sự bi thảm, chết chóc: người chết như ngả rạ, người sống thì xanh xám, hoặc nằm ngổn ngang, hoặc đi lại dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma; đám trẻ con thường ngày vô tư hồn nhiên là thế mà nay cũng không buồn nhúc nhích, ngồi ủ rũ dưới những góc tường; không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người; tiếng quạ ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng Tràng cũng không được yên bình, bởi xen vào đó là tiếng hờ khóc tỉ tê não nùng, xót xa…
+ Cảnh sống của gia đình Tràng cũng hết sức thê thảm. Một ngôi nhà vắng teo, xiêu vẹo, đứng rúm ró trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, giữa nạn đói kinh hoàng.   Bữa ăn đầu tiên của gia đình đón nàng dâu mới thật thảm hại, chứa chất bao nỗi tủi hờn: niêu cháo loãng lõng bõng cũng không đủ ăn, họ ăn những miếng cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng.
=> Đặt bên cạnh những ám ảnh chết chóc đó, hạnh phúc của Tràng cũng trở nên rất mong manh.
- Lấy vợ là tạo lập một gia đình, là xây dựng nền móng cho tương lai song nó lại diễn ra khi sự sống đang tắt dần và tương lai thì mờ mịt – “năm nay thì đói to đấy”.
- Lấy vợ là việc trọng đại và thiêng liêng của đời người song trong cảnh đói khát, nó diễn ra rất nhếch nhác, thảm hại:
+ cả hai người đều là xa lạ, chưa có hiểu biết gì về nhau, họ cũng không có dự định trở thành vợ chồng, chỉ qua một câu nói đùa của Tràng mà sự đùa đã trở thành sự thật;
+ cô dâu về nhà chồng trong bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, cái nón rách tàng rất tội nghiệp và chỉ có một cái thúng con đựng ít đò lặt vặt do Tràng vừa mua cho chứ cũng không là của hồi môn mà bố mẹ cho con gái khi về nhà chồng;
+ con đường dẫn dâu gầy gò, khẳng khiu , xơ xác như cũng mang trong mình nỗi đói khát ghê gớm của nơi này; nó lại rất vắng vẻ không có người qua lại, chỉ có hai vợ chồng Tràng.
+ Hơn nữa, tất cả những nghi thức thiêng liêng theo truyền thống, theo tục lệ  cũng đã bị bỏ qua.
=> Nhà văn Kim Lân “đã chọn cái giây phúc rùng mình của lịch sử trong nạn đói 1945 để gợi lên trong ta những cảm thương xa xót”.
* Ý nghĩa: tạo ra nét tâm lí rất phức tạp cho mọi người cả trong cuộc và ngoài cuộc.
- Tất cả mọi người đều có chung tâm trạng lo lắng:
+ bản thân Tràng cũng cảm thấy “chợn”, lo lắng vì không biết có nuôi nổi thân không lại còn đưa thêm miệng ăn về nhà.
+ Người trong xóm ngụ cư cũng xót xa cho Tràng;
+ bà cụ Tứ - mẹ Tràng lo lắng không biết các con bà có qua nổi thì đói kém này không, lo cho tương lai của chúng.
+ Người vợ nhặt cũng không biết phía trước cuộc sống sẽ thế nào nên cũng ưu tư, phấp phỏng, nét mặt cũng tự nhiên mà bần thần, không nói năng gì, chỉ ngồi mớm ở mép giường, tay ôm khư khư cái thúng.
=> Những lo lắng tạo cho truyện một không khí đầy dồn nén và tạo cho hình tượng nhân vật một chiều sâu tâm lí đầy sức thuyết phục.
- cảm giác buồn tủi, xót xa, cay đắng là cảm giác nổi bật của những người trong cuộc, đặc biệt là người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
+ Khi theo Tràng về đến nhà, gia cảnh của Tràng hiện ra trước mắt, một ngôi nhà đứng rúm ró trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại – ngôi nhà đứng trong nạn đói nên cũng hoang dại và thiếu vắng dấu ấn của sự sống,  người đàn bà đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, có lẽ chị ấy cũng có phần thất vọng về gia đình nhà Tràng – một người đã rất hào hiệp khi mời chị ăn, rất hoang phí khi trong buổi đói khát mà dám bỏ tiền ra mua dầu về thắp buổi tối mà lại sống trong một căn nhà xiêu vẹo thiếu sức sống thế kia; khi đón nhận bát cháo cám từ tay người mẹ chồng, đôi mắt của chị tối lại. Tất cả những điều đó chị không được biết từ trước;
+ Còn bà cụ Tứ, chuyện con trai có vợ, bà nghĩ đến cả cuộc đời đầy tủi cực, chồng chất đắng cay của bà, bà tủi cho thân bà không lo được vợ cho trai bà. Bà đã chu đáo chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà trong ngày đầu tiên có nàng dâu mới, ngoài nồi cháo loãng, bà còn chuẩn bị nồi “chè khoán”, tưởng đâu làm cho mọi người no bụng hơn, ai ngờ lại đem vào bữa ăn đó sự đáng chát và nỗi tủi thẹn để từ đó mọi người cúi mặt ăn cho xong lần, ai nấy đều tránh nhìn nhau…
d. Tình huống truyện trong Vợ nhặt cũng đầy cảm động.
*  Tình huống trong Vợ nhặt cảm động:
- Trong những ngày đói quay đói quắt, Tràng cưu mang một người khác, dù không có điều kiện để thực hiện những nghi lễ theo phong tục nhưng việc Tràng mua cho chị một cái thúng con, ăn no nê, dám bỏ tiền ra mua hai hào dầu để thắp tối “tân hôn” có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng: để cho quan hệ giữa hai người không còn ngượng nghịu và dung tục. Điều này còn thể hiện sự trân trọng của Tràng với người vợ - dù là người vợ nhặt, để cho cô ấy bớt đi phần nào sự tủi thân trong  ngày trọng đại nhất của đời mình  và anh cũng nâng niu niềm hạnh phúc bất ngờ của anh.
+ cũng thật cảm động khi anh chủ động giới thiệu người vợ nhặt của mình với mẹ để tránh cho người vợ sự ngượng nghịu với mặc cảm theo không người đàn ông xa lạ;
+ cảm động nhất là không khí đầy tình người, tình thân trong gia đình Tràng. Bà cụ Tứ chấp nhận con dâu bằng tất cả tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, lòng nhân hậu. Bà nói chuyện với con dâu như bày tỏ niềm tâm sự, là lời khuyên sâu sắc của người mẹ nghèo từng trải.
+ Cảnh mọi người trong gia đình cùng chung tay dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, cho mới mẻ: đống rác ngay giữa lối đi đã được hót, đống quần áo cũ được đem ra phơi, những búi cỏ dại lổn nhổn đã được rẫy đi, những cái ang đã đổ đầy nước – dấu ấn sự sống đã trở về trong ngôi nhà quen thuộc của Tràng, ngôi nhà trước đó vẫn đứng trơ vơ, xiêu vẹo, điêu tàn giữa ngày đói; mọi người có chung suy nghĩ: dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ thì cuộc đời có cơ sáng sủa hơn.
+ Trong bữa cơm, mọi người trò chuyện với nhau trong không khí thân tình – thật giản dị mà ấm áp, thiêng liêng; người mẹ bàn bạc về kế hoạch tương lai cho con cái – một tương lai có thể bước tới được, vì nó không quá tầm với: chỉ là một đôi gà với đàn gà con – nhưng đã tràn đầy sự sống.
* Ý nghĩa, tác dụng: tạo nên sự thay đổi theo hướng tích cực của tất cả người trong cuộc và người ngoài cuộc.
+ Dân ngụ cư rạng rỡ hẳn lên, có cái gì lạ lùng thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ, đó chính là tình người. Họ đã chứng kiến hai con người, hai số phận gắn bó với nhau, cùng hi vọng vượt qua tình cảnh đói khát hiện tại – giữa lúc làn sóng đói nghèo như muốn cuốn phăng đi tất cả.
+ Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhanh nhẹn hơn: khuôn mặt rạng rỡ khác ngày thường; trong bữa ăn toàn nói chuyện vui, chuyện tương lai với niềm tin tưởng vào sự thay đổi của cuộc sống.
+ người vợ nhặt trở nên hiền hậu, đúng mực, ý tứ, đảm đang, chị không còn vẻ gì là chao chát chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh – chất nữ tính của chj đã trở về tọn vẹn.
+ Tràng vui vẻ hơn, hào hứng và anh thấy như trưởng thành hơn, thấy yêu thương và gắn bó với cái nhà anh lạ thường, lại còn hoà hợp với mẹ, anh thấy anh có trách nhiệm với gia đình.
2. Tình huống “nhặt vợ” của Tràng làm toả sáng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm: khẳng định, đề cao những tình cảm cao đẹp, những khát vọng chân chính của con người.
a. Là bài ca về tình nghĩa
- Tình mẫu tử: Việc Tràng có vợ đã gây ra cho bà cụ Tứ rất nhiều phản ứng tâm lí trái ngược nhau (vui mừng và buồn tủi, thương và lo). Song mọi tình cảm đó đều xuât phát từ lòng thương con. Trong hoàn cảnh đói quay đói quắt, bà cụ Tứ đã không hề hăt hủi người đàn bà đã theo không con trai mình về. Bà cụ đã chấp nhận và đón nhận người con dâu với tất cả tấm lòng nhân từ của một người mẹ. Bà đã nói với người đàn bà xa lạ ấy bằng những lời chân thành của một người mẹ - bà thực sự “mừng lòng”.
- Tình người: Dân xóm ngụ cư trong cảnh tối sầm lại vì đói vẫn chia sẻ với Tràng, chia sẻ với nhau cả những nỗi lo cùng niềm vui, niềm hạnh phúc. Còn Tràng, dù trong hoàn cảnh chưa biết có sống nổi đến ngày mai không vẫn sẵn lòng cưu mang một người còn khổ hơn mình. Việc Tràng mời người đàn bà một bữa bánh đúc không hề tính toán gì, cử chỉ hào hiệp ấy không phải do sự giàu có về tiền bạc mà chính ở tình người. Và chính tình nghĩa đã khiến Tràng trở nên lúng túng, trên đường về, anh muốn nói một câu gì cho văn vẻ với người vợ vừa nhặt được à không sao nói nổi, có một cái gì mới mẻ, lạ lắm khiến anh hạnh phúc vô cùng. Người đàn bà được Tràng và người mẹ chồng chấp nhận, chị đã trở nên dịu dàng, đúng mực hơn, tất cả chất nữ tính của chị trước đây bị cái đói tước mất thì  đói thì nay đã trở về nguyên vẹn.
b. Là bài ca về những khát vọng chân chính của con người.
- Đề cao, khẳng định hạnh phúc của con người: Trong hoàn cảnh bi thảm con người vẫn có thể tạo dựng được hạnh phúc. Người nhặt vợ và người vợ nhặt khi đến với nhau lại tạo dựng được một mái ấm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy thiêng liêng đến mức làm thay đổi tất cả mọi người – theo chiều hướng tích cực, làm cho mỗi người trở nên Người hơn, yêu thương nhiều hơn, găn bó hơn và có ý thức sâu sắc về cuộc sống và tương lai.
- Khẳng định khát vọng sống, niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai. Trong đêm đầu tiên của vợ chồng Tràng, ánh sáng của ngọn đèn dầu toả ra thứ ánh sáng ấm áp, ánh sáng của niềm vui, niềm tin mãnh liệt. Một người nghèo khổ như Tràng, lại gặp bước khó khăn đến mức đang đứng bên cạnh cái chết thế mà dám bỏ tiền ra mua dầu thắp thì đó không phải là một sự hoang phí mà chính là niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, sự sống. Đặc biệt, nhà văn Kim Lân để cho bà cụ Tứ, người già nhất trong truyện lại nói nhiều nhất về tương lai để khẳng định niềm tin mạnh mẽ, sâu sắc ở tất cả mọi người.
- Kết cấu truyện là kết cấu theo chiều hướng phát triển đi lên, đó là kết cấu dựa trên cơ sở của niềm tin, niềm hi vọng. Truyện mở ra là một buổi chiều chạng vạng mặt người với cái đói thê thảm tước dần sự sống của con người. Và kết thúc là một buổi bình minh sáng bừng và hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh. Đó là một kết thúc lạc quan, nó thể hiện sâu sắc ý tưởng của nhà văn Kim Lân: “Trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, người dân quê Việt Nam vẫn cố gắng vượt lên khỏi cái đói, cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng”.
                                  NGUYÊN HẠNH - CẨM LINH DƯƠNG

3 nhận xét: