ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
I.Khái quát
chung
1.Nguyễn
Khoa Điềm là một trong những nhà thơ
trẻ tiêu biểu trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cmar xúc nồng nàn,
mãnh liệt về nhân dân, đất nước – thể hiện sâu sắc tâm tư của người trí thức
tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
2.Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V trong trường ca Mặt
đường khát vọng.
-Trường ca Mặt đường khát vọng sáng tác năm
1971 tại chiến khu Trị Thiên, một chiến trường nóng của thời chống Mĩ.
-Mục đích của tác phẩm: thức tỉnh tuổi trẻ đô thị miền
Nam và tuổi trẻ cả nước về bộ mặt xâm lược và tội ác của đế quốc Mĩ để hướng về
nhân dân, đất nước cùng đứng dậy đấu tranh hoà nhịp với cuộc đấu tranh của toàn
dân.
3.Nội dung:
-Những cảm nhận, khám phá, suy tư mới mẻ của tác giả
Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước (trên nhiều bình diện: bề dày lịch sử, chiều rộng
của địa lí, chiều sâu văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống).
-Khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân – nhân dân
bình dị vô danh đã làm nên Đất Nước.
=>Ngợi ca, tự hào và biết ơn đối với Nhân dân, Đất
Nước.
4.Nghệ thuật
-Sử dụng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn đan
xen rất nhịp nhàng với giọng điệu linh hoạt thể hiện được đa dạng những cung bậc
cảm xúc, suy tư của tác giả về đất nước.
-Vận dụng sáng tạo, tài hoa những yếu tố của văn hoá,
văn học dân gian: truyện cổ, ca dao, thành ngữ, phong tục tập quán khiến cho ý
thơ vừa mang sắc thái huyền thoại vừa gần gũi với đời sống mà rất mới mẻ, hiện
đại.
-Kết hợp hài hoà yếu tố chính luận và chất trữ tình:
Hình thức tâm tình trò chuyện nhỏ to làm cho ý thơ chính luận trở nên mềm mại,
uyển chuyển, giàu cảm xúc.
II.Phân tích
1.
Đoạn thơ : “Khi
ta lớn lên Đất Nước đã có rồi … Làm nên Đất Nước muôn đời” – Những cảm nhận
rất riêng của tác giả về Đất Nước.
a.
Đoạn thơ 9 câu đầu:
Khi ta lớn
lên Đất Nước đã có rồi
………………………………….
Đất Nước có từ
ngày đó…
*Câu thơ mở đầu giản dị giống như một lời tự sự, đậm
chất văn xuôi mà nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, trò chuyện của một cá nhân với một
cá nhân cụ thể. Nhân vật trữ tình xưng “ta”
vừa mang tính chất riêng tư của đôi lứa vừa như đại diện cho một lớp người, một
tập thể, bộc lộ cảm nhận, cảm xúc về Đất Nước, khát khao tìm hiểu về Đất Nước để
khẳng định sự thật, chân lí của đời sống:
Khi ta lớn
lên Đất Nước đã có rồi
-Trong lời tâm sự, Đất Nước được đặt trong mối quan
hệ với thời gian: hiện tại (khi ta lớn lê) và quá khứ (đã có rồi). Câu thơ
vì thế gợi niềm tự hào của tác giả về Đất Nước và Nhân Dân, gợi về những nhọc
nhằn, vất vả của cha ông ta qua bao thời kì lịch sử dựng xây và gìn giữ,
vun đắp và bảo vệ đất nước để đất nước qua bao biến động, thăng trầm của lịch sử
vẫn hiên ngang vững chãi, sừng sững trường tồn, bất tử.
*Đất Nước ra
đời, trưởng thành cùng đời sống và tâm hồn con người đất Việt, gắn với những gì
bình dị nhất, gần gũi nhất trong đời sống mỗi con người:
Đất Nước có
trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
………………………………..
Tóc mẹ thì bới
sau đầu
-Những câu thơ được kéo ra rất dài, cách viết của tác
giả rất hồn nhiên, tự nhiên, giản dị mà sâu sắc vô cùng. Chính lời thơ ấy làm
cho Đất Nước trở nên gần gũi với tất cả mọi người.
-Trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước hiện diện
trong “những cái ngày xửa ngày xưa”. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” gợi nhiều
liên tưởng.
+ Đó là những câu chuyện của lịch sử, đời sống
đã diễn ra trong quá khứ được nhân dân kể lại, gợi lại cho con cháu nghe, nhằm
răn dạy, nhắc nhở về một bài học đạo lí, nhân sinh. Đó cũng là cụm từ
mở đầu những truyện cổ dân gian, gợi không khí cổ tích, huyền thoại.
->Câu thơ rất giản dị mà làm sống dậy đời sống sinh
động, đậm tình người của nhân dân. Đất Nước có trong những câu chuyện mẹ thường
hay kể là vẻ đẹp tâm hồn, là tình yêu, ước mơ của mẹ, là giấc ngủ yên bình của
em thơ… Cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước thật chân thành mà sâu sắc. Đất
Nước hiện diện trong những truyện cổ, trong những câu chuyện của đời sống được
nhân dân ta nhắc đến muôn đời. Đất Nước hiện diện trong đời sống của dân gian,
mang vẻ đẹp, cốt các của nhân dân.
-Trong cảm nhận của nhà thơ, Đất Nước có cội nguồn rất sâu sắc: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn”. Tác giả sử dụng từ ngữ thật tinh tế. Từ “bắt đầu” gợi liên tưởng
đến sự hình thành, khởi thuỷ của Đất Nước; từ ngữ “bây giờ” gợi về thời gian hiện
tại, gắn bó với cuộc sống hiện tại của nhân dân. Câu thơ này nhắc đến “miếng trầu”
gợi suy nghĩ về câu chuyện trầu cau, ngợi ca đạo lí dân tộc là tình cảm gia
đình sâu nặng, nghĩa vợ tình chồng thuỷ chung nồng đượm. “Miếng trầu là đầu câu
chuyện” gợi về tình làng nghĩa xóm, về tình cảm cộng đồng thiêng liêng. Miếng
trầu còn gợi về nét đẹp của văn hoá quê hương, về phong tục tập quán của nhân
dân. Miếng trầu thường xuất hiện trong đời sống sinh hoạt và trong những sự kiện
trọng đại của đời người: cưới hỏi, ma chay… Trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm, Đất Nước hình thành từ nét đẹp của đạo lí và văn hoá của dân tộc, của
tâm hồn của nhân dân.
-Đất Nước trưởng
thành cùng quá trình đánh giặc giữ nước,
từ ý thức về chủ quyền lãnh thổ, thái độ yêu chuộng hoà bình của nhân dân ta.
Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” khiến người
đọc nghĩ đến truyền thuyết về Thánh Gióng, đồng thời còn nhắc nhở chúng ta về
tinh thần đoàn kết và kiên cường, bất khuất của nhân dân, về cốt cách dân tộc.
Từ ngữ “dân mình” nói về tình cảm cộng đồng dân tộc rất thiêng liêng.
+Đất Nước gắn liền và trưởng thành cùng vẻ đẹp giản dị
đời thường mà duyên dáng của người phụ nữ, cùng cuộc sống lao động gian lao, nhọc
nhằn mà sáng tạo (hạt gạo, cái kèo, cái
cột), cùng tình cảm sâu đằm, thuỷ chung, bền vững của mẹ cha, của lứa đôi…
*Nghệ thuật:
-Đoạn thơ sử dụng thể thơ tự do với các câu thơ dài ngắn
đan xen rất linh hoạt cùng hình thức trò chuyện tâm tình làm cho ý thơ chính luận
và chất trữ tình được kết hợp hài hoà, các cung bậc của cảm xúc, suy tư của tác
giả được thể hiện một cách tự nhiên.
-Tác giả vận dụng tài hoa khéo léo những yếu tố của
văn hoá văn học dân gian: truyện cổ, thành ngữ dân gian.
-Từ Đất Nước được điệp lại và viết hoa thể hiện thái độ
trân trọng, ngợi ca và biết ơn của tác giả đối với Đất Nước và Nhân Dân.
=>Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận rất
mới mẻ về Đất Nước. Đất Nước rất hùng vĩ, hiên ngang mà giản dị, gần gũi vô
cùng. Đất Nước gắn liền với đời sống mộc mạc của nhân dân, là câu chuyện mẹ kể,
là miếng trầu bà ăn, là tình yêu, hạnh phúc của lứa đôi, là sự nhọc nhằn, sáng
tạo của nhân dân… Đất Nước gắn với các mối quan hệ gần gũi mà thiêng liêng vô
cùng: quan hệ gia đình (với mẹ, với bà), quan hệ làng xóm, cộng đồng dân tộc (dân mình)…
b.Đoạn thơ: “Đất là nơi anh đến trường …Cũng biết cúi đầu
nhớ ngày giỗ tổ”.
*Nội dung của
đoạn thơ: Cảm nhận của tác giả về Đất
Nước trên những phương diện: không gian địa lí và thời gian lịch sử cùng truyền
thống, đạo lí của dân tộc.
*Không gian
của Đất Nước:
-Đất Nước gắn liền với những không gian riêng tư,
không gian của cá nhân: gắn liền với những kí ức, những kỉ niệm đẹp tươi: là
nơi anh đến trường, là nơi gắn với những tình cảm trong trẻo, hồn nhiên của tuổi
thơ, khát khao chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện bản thân; “là nơi em tắm” gợi
những kí ức về tuổi thơ nhảy nhót dưới mưa, lặn ngụp nơi ao hồ sông suối quê
hương…
-Đất Nước là nơi tình yêu nảy nở: nơi ta hò hẹn, nơi
em đánh rơi trong nỗi nhớ thầm.
-Đất Nước là núi rừng sông bể, “là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, nơi con cá ngư ông
móng nước biển khơi”, là không gian hùng vĩ, đẹp tươi, vĩnh hằng, là nơi
cho những câu hát điệu hò ra đời, biểu thị đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân
dân.
-Đất Nước là không gian sinh tồn của giống nòi, của cộng
đồng dân tộc yêu thương: “nơi dân mình đoàn tụ”.
*Thời gian lịch
sử: “thời gian đằng đẵng”. Lịch sử Đất
Nước được gợi ra từ truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết trăm trứng
và giống nòi con Lạc cháu Hồng rất cao quý của nhân dân ta.
-Thời gian đó là sự tiếp nối không ngừng nghỉ của các
thế hệ nhân dân: “đã khuất – bây giờ -
mai sau”. Các thế hệ nhân dân tiếp sức nhau gánh vác phần người đi trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Nhắc đến sự tiếp nối lịch sử là nhắc đến trách nhiệm của mỗi người đối với Đất
Nước, đặc biệt trong hoàn cảnh sứ mệnh Đất Nước bị đe doạ, những câu thơ như thế
có sức lay động sâu sắc đối với người đọc, người nghe.
-Lịch sử Đất Nước còn được gợi ra từ đạo lí uống nước nhớ nguồn, biết ơn nguồn cội: “Cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”.
=>Từ Đất Nước có khi tách ra, có khi để nguyên với
cấu trúc câu Đất là…, Nước là…, Đất Nước
là… vừa gợi ra tính chất cụ thể - gắn với không gian sinh tồn về mặt vật chất
của con người cá thể, vừa mang tính chất vẹn tròn, toàn khối – chỉ ý nghĩa tinh
thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc như một đại
gia đình cùng chung “bọc trứng”.
c.Đoạn thơ: “Trong anh và em hôm nay … Làm nên Đất Nước
muôn đời” : Cảm nhận của thế hệ trẻ trong hiện tại về Đất Nước:
-Nhận thức được rằng “trong anh và em hôm này – đều có một phần Đất Nước”. Đất Nước hoá
thân, kết tinh trong sự sống của mỗi người. Và sự sống của mỗi người không chỉ
là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất
Nước. Bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hoá vật chất và
tinh thần của dân tộc, của nhân dân. Vì vậy, mỗi cá nhân cần có trách nhiệm giữ
gìn, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
-Nhận thức mỗi quan hệ hữu cơ giữa các cá nhân trong đời
sống (khi hai đứa cầm tay – Đất Nước
trong chúng ta hài hoà nồng thắm), cá nhân với cộng đồng – khi cá nhân hoà
trong cộng đồng dân tộc rộng lớn thì sẽ tạo ra khối đoàn kết, sức mạnh to lớn (Khi chúng ta cầm tay mọi người – Đất Nước vẹn
tròn, to lớn).
-Ước vọng về thế hệ tương lai, tin tưởng rằng thế hệ
tiếp theo sẽ gìn giữ đất nước và xây dựng đất nước đẹp tươi hơn.
*Khi đã hiểu
hết ý nghĩa thiêng liêng của Đất Nước, nhà thơ gửi đến thế hệ trẻ thông điệp về trách nhiệm đối với đất nước:
Em ơi em, Đất
Nước là máu xương của mình
……………………………………………..
Làm nên Đất
Nước muôn đời
Mỗi người cần nhận thức Đất Nước là một phần máu
xương, một phần cơ thể, sự sống của mình để gắn bó, yêu thương, cảm thông, san
sẻ và sẵn lòng hi sinh để gìn giữ, làm nên dáng hình Đất Nước, làm nên sự trường
tồn, bền vững của Đất Nước. Lời nhắn nhủ này mang tính chính luận nhưng không
mang tính chất giáo huấn khô khan mà rất trữ tình bởi giọng thơ tâm tình, nó giống
như lời tự dặn chính bản thân, lời dặn dò người yêu chân thành, tha thiết.
=>Nhà thơ Nguyễn Khoa Điêm đã từ đặt ra câu hỏi Đất
Nước có từ bao giờ và Đất Nước là gì để nhận thức, lí giải và thấu hiểu
bằng tri thức văn hoá dân tộc chứng tỏ nhà thơ là người có niềm tự hào sâu sắc
và tình yêu đất nước thiết tha.
2.Tư tưởng Đất
Nước của Nhân Dân: “Những người vợ nhớ chồng
… Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
a.Đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
những nũi Vọng Phu … Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”: Nhân dân là người
làm nên không gian địa lí – bức tranh văn hoá muôn màu của Đất Nước.
-Tác giả cảm nhận về không gian địa lí của Đất Nước
qua việc liệt kê những kì quan thiên nhiên, những danh thắng, các địa danh,
dáng núi hình sông – khẳng định Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ đáng tự hào.
-Nhà thơ có cách cảm nhận sâu sắc, mới mẻ: Mỗi vùng đất,
mỗi dáng núi hình sông đều do nhân dân ta làm nên. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh
khi gắn với cuộc đời, tâm hồn của nhân dân, cuộc sống lao động nhọc nhằn, công
cuộc xây dựng và vun đắp, đấu tranh và bảo vệ với bao xương máu và niềm tự hào.
Vùng đất nào cũng in dáu bàn tay lao động, khát khao và lẽ sống của nhân dân:
+Lẽ sống thuỷ chung, yêu thương tình nghĩa của nhân
dân đã để lại cho chúng ta những Núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái.
+Tinh thần yêu chuộng hoà bình và quyết liệt trong căm
thù, lẽ sống anh hùng, tinh thần chuộng đạo lí, hướng về cội nguồn với lòng biết
ơn thành kính đã để lại cho ta những ao
đầm, những ngọn núi như những di tichs lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước
hào hùng của dân tộc.
+Tinh thần hiếu học, lạc quan, yêu và trọng cái đẹp, gắn
bó với cuộc sống đời thường đã tạo nên
những Núi Bút, Non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long, những dòng sông xanh thẳm…
-Những tên đất tên làng còn mang dáng hình người đi mở
cõi, người làm nên không gian sinh sống của cộng đồng: ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm.
- Nhà thơ đã khẳng định: không gian nào cũng mang dấu ấn
bàn tay lao động, dựng xây của cha ông; không gian nào cũng mang đậm nét lối sống,
khát vọng, lẽ sống của cha ông. Chính cha ông, các thế hệ nhân dân bình dị, vô
danh không ai nhớ mặt đặt tên đã thầm lặng làm nên cuộc sống của chúng ta hôm
nay, đất nước của chúng ta hôm nay. Điều đó thể hiện thái độ yêu quý, trân trọng,
kính trọng, biết ơn của tác giả đối với Đất Nước và Nhân Dân.
*Nghệ thuật:
-Những câu thơ dài ngắn đan xen, đặc biệt, nhà thơ sử
dụng rất nhiều câu thơ dài như những câu văn xuôi kết hợp với phép điệp từ, điệp cấu trúc câu để khẳng
định các thế hê nhân dân đã lặng thầm nối tiếp nhau không ngừng nghỉ để làm nên
dáng hình đất nước trong suốt chiều dài lịch sử.
-Giọng điệu ngợi ca, tự hào; vận dụng khéo léo, tài
hoa những yếu tố của văn hoá, văn học dân gian đã thể hiện những cảm nhận sâu sắc
của tác giả về Đất Nước.
b. Đoạn thơ “Em ơi em – Hãy nhìn rất xa ... Họ đắp đập
be bờ cho người sau trồng cây hái trái”: Nhân Dân làm ra lịch sử và truyền
thống của Đất Nước.
-Nhà thơ sử dụng hình thức tâm tình, tâm sự trò chuyện
nhỏ to của đôi trai gái với lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà thấm thía:
Em ơi em
Hãy nhìn rất
xa
Vào bốn nghìn
năm Đất Nước
+Những câu thơ ngắn gọn, lời thơ giản dị mà ý thơ sâu
săc: nhắn nhủ riêng “em” cũng là nhắn nhủ mỗi người hãy có cái nhìn yêu thương
và gắn bó, có trách nhiệm với lịch sử Đất Nước, hãy nhìn vào chiều dài lịch sử
Đất Nước, nhìn vào quá khứ, hiện tại và tương lai của Đất Nước.
+Nhà thơ không điểm lại những thời đại lịch sử đã qua,
không điểm tên những anh hùng lưu danh sử sách, không tái hiện những sự kiện lịch
sử vang dội của dân tộc. Nhà thơ có cái nhìn khái quát về cả chiều dài lịch sử
dân tộc suốt bốn nghìn năm. Lời thơ, do vậy đã gợi niềm tự hào về bề dày lịch sử
của Đất Nước.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rất khéo léo kết nối quá khứ
với hiện tại trong dòng chảy liên tục của lịch sử bằng cách gợi về tập thể đông
đảo các thế hệ nhân dân: người người lớp lớp, bốn nghìn lớp người, biết bao người
con gái con trai, chúng ta. Chính nhân dân đã sát cánh kề vai, đã chung lòng nhất
trí, đã chạy tiếp sức không ngừng nghỉ để dựng xây Đất Nước làm nên truyền thống
của Đất Nước: “Năm tháng nào cũng người
người lớp lớp.. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.
-Cụm từ “năm
tháng nào” gợi thời gian không xác định
trong lịch sử, nó khẳng định bề dày lịch sử, kể cả lúc chiến tranh hay khi hoà
bình… Cụm từ “người người lớp lớp” biểu
trưng cho sức mạnh nhân dân, cho sự hoá thân của nhân dân. Lớp người sau tiếp
bước lớp người trươc, cứ thế tạo thành một dòng chảy bất tận của Đất Nước tạo
nên sự trường tồn, bất tử của Đất Nước.
-Trong khi khẳng định sức mạnh, vai trò của nhân dân,
nhà thơ đặc biệt chú ý đến những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta, nhấn
mạnh vào lớp người trẻ tuổi, những người đang sống, những người đang yêu, đang
khao khát hoà bình.
(Bài thơ được viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên
trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất sôi nổi và căng thẳng. Trong
hoàn cảnh lịch sử này, Đất Nước cần sự chung tay góp sức của tất cả mọi lực lượng,
nhất là tuổi trẻ, tuổi mà sức mạnh tràn trề nhất, có thể thay đổi được những
tình thế khó khăn. Lúc này, những lời thơ tâm tình, nhắn nhủ của tác giả như vậy
có ý nghĩa rất lớn.)
-Nguyễn Khoa Điềm viết về vai trò của Nhân Dân bằng những
lời thơ bình dị nhất, cách diễn đạt mộc mạc nhất mà ý tưởng sâu sắc, thấm thía.
Nhà thơ có nhận thức rằng những người làm nên Đất Nước không chỉ là những anh
hùng nổi tiếng lưu danh sử sách “cả anh
và em đều nhớ” mà ông muốn nhấn mạnh đến những người anh hùng vô danh, thầm
lặng dựng xây Đất Nước. Họ là những người cần cù trong lao động, gắn bó và yêu
mến cuộc sống đời thường. Nhưng khi nền hoà bình của Đất Nước bị đe doạ, họ tự
nguyện ra trận và anh dũng trong chiến đấu.
-Nhà thơ có những cảm nhận rất mới mẻ về lịch sử Đất
Nước. Đánh giặc không chỉ là nhiệm vụ của những người con trai mà còn trách nhiệm
của cả những người con gái, của mọi tầng lớp nhân dân, của cả dân tộc: “Khi có giặc người con trai ra trận – Người
con gái trở về nuôi cái cùng con – Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.
+ “Người con
trai ra trận”, ra nơi tiền tuyến ác
liệt, sẵn sàng cống hiển, xả thân vì Đất Nước. Người con gái ở nhà chăm dưỡng mẹ
cha, nuôi dạy con thơ, vun vén gia đình, trở thành hậu phương vững chắc cho người
con trai. Nhưng khi sự yên bình, sự sống trên quê hương bị đe doạ thì “đàn bà”
cũng vùng lên thành những anh hùng, cũng kiên cường, hiên ngang, bất khuất. Đó
là nét đẹp của tâm hồn, tính cách dân tộc Việt: cần cù, nhân ái, yêu chuộng hoà
bình và quyết liệt trong căm thù.
+Từ nhận thức sâu sắc của tác giả về Đất Nước, ông nhắn
nhủ thế hệ mình về vai trò của mỗi người đối với Đất Nước, đặc biệt trong hoàn
cảnh lịch sử căng thăng, sự sống của Đất Nước rất mỏng manh: “Nhưng em biết không … Nhưng họ đã làm nên Đất
Nước”. Đất Nước đã được làm nên từ máu xương, từ sự hi sinh giản dị và bình
tâm của nhân dân, của những con người chẳng tiếc đời xanh, không tiếc đời mình.
-Ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm rất tinh tế. Khi ông viết về
công lao, vai trò to lớn của Nhân Dân đối với Đất Nước thì câu thơ kéo ra rất
dài, nhưng khi viết về sự hi sinh thì những dòng thơ co ngắn lại: “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”.
Những từ ngữ “giản dị”, “bình tâm” và
những từ đối lập “sống – chết” cho thấy
nhân dân đã tự nguyện hi sinh cho sự sống bất tận của Đất Nước. Họ hi sinh nhẹ
nhàng, thanh thản. Họ thật cao cả, vĩ đại, phi thường. Nhà thơ đã đặt những cái
vĩnh hằng bên cạnh cái giản dị, vô danh để ngợi ca, khẳng định nhân dân, vai
trò của nhân dân, đồng thời thể hiện thái độ kính trọng, biết ơn đối với Nhân
Dân.
c. Đoạn thơ
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng … Gợi trăm màu trên trăm dáng sông
xuôi”: Nhân Dân làm nên bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc, giữ gìn những
giá trị đó và truyền lại cho các thế hệ sau.
-Mọi giá trị vật chất, văn hoá, tinh thần của dân tộc
đều do nhân dân sáng tạo ra, quý trọng nó, gìn giữ, lưu truyền: hạt lúa, ngọn lửa,
ngôn ngữ, tên xã tên làng, phong tục tập quán…
-Đại từ “họ” mang ý nghĩ khái quát về nhân dân, số đông, tập thể. Đó là sự hiện
diện của nhân dân qua các thời kì lịch sử, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia làm
nên sức ống của dân tộc, truyền lại sức sống ấy cho các thế hệ sau.
+Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa: nâng niu, quý trọng, giữ gìn, truyền lại những thành tựu của
nền văn minh lúa nước, gieo mầm sự sống cho con cháu muôn đời sau.
+Ngọn lửa
là biểu tượng thiêng liêng của đời sống tinh thần, được nhân dân tìm mọi cách để
giữ gìn: “chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn
than qua con cúi”, đem đến cho nhau ánh sáng, hơi ấm và sự sống, sức sống
và sự yêu thương, chan hoà.
+Giọng nói
là sự biểu hiện và lưu giữ đời sống tinh thần thiêng liêng. “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập
nói” là truyền lại ngôn ngữ dân tộc,
của cải vô giá của dân tộc, truyền lại tính cách và vẻ đẹp con người Việt.
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, ngôn ngữ dân tộc là người bảo vệ quý
báu nhất chủ quyền dân tộc. Gìn giữ và yêu quý tiếng nói dân tộc là một biểu hiện
của tình yêu nước thiết tha.
+Nhân dân là người làm nên ruộng đồng gò bãi, làm nên tên đất tên làng để mỗi không gian ấy vừa
thân thuộc vừa rất thiêng liêng. Tên đất tên làng nhắc nhở mỗi người về nguồn cội,
về quê hương, về phong tục tập quán, về bản sắc văn hoá và con người quê hương. Một ai đó dù đã chuyển dời,
đã sống xa quê nhưng khi nhắc đến tên quê hương của mình thì bao tình cảm mến
thương, bao yêu quý và niềm trân trọng, tự hào lại trở về rưng rưng. Chữ “gánh” gợi nhiệm vụ, trọng trách lớn
lao – nhắc nhở con cháu về quê hương, bản quán.
+Nhân dân là người đắp đập be bờ, xây dựng nền tảng sự sống, nền tảng vật chất và tinh
thần cho người đời sau “trồng cây hái trái”, hưởng thụ
thành quả và phát huy sức mạnh của những giá trị đó.
+Sức mạnh tinh thần được thể hiện rất sâu sắc trong thái độ ứng xử với kẻ thù. Nhân dân vô
danh, bình dị ấy là những người “cần cù làm lụng”, yêu chuộng hoà bình, sống
nhân ái, chan hoà nhưng kiên cường trong đấu tranh và quyết liệt trong căm thì.
Bất cứ thế lực nào đe doạ đến sự yên bình của đất nước, đe doạ đến sự sống của dân tộc, nhân dân đều “vùng lên đánh bại”. Đó là tính cách Việt
Nam được nhân dân ta đời đời gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau.
*Từ những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ mà gần gũi về Đất
Nước, về vai trò to lớn của nhân dân, tác giả khẳng định: Đất Nước của Nhân Dân. Đó là tư tưởng chủ đạo, là chiều sâu dòng cảm hứng
trữ tình – chính luận của trang thơ này.
-“Đất Nước này
là Đất Nước Nhân Dân – Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
…Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Nhà thơ đã vận dụng rất khéo léo những
câu ca dao gắn liền với đời sống tinh thần, tâm hồn của nhân dân để khẳng định
truyền thống của nhân dân ta: giàu lòng yêu thương, thuỷ chung son sắt, quý trọng
nghĩa tình và kiên cường bất khuất. Nhân Dân đã làm nên Đất Nước, văn hoá bằng
chính tính cách, lẽ sống, tâm hồn của mình.
-Từ sự nhận thức về Đất Nước, về Nhân Dân, tuổi trẻ thế
hệ Nguyễn Khoa Điềm càng thêm tự hào và muốn ngân lên khúc hát dạt dào say mê
ngợi ca về Đất Nước, Nhân Dân mình.
d.Nghệ thuật
-Lời thơ giản dị, ý thơ sâu sắc, đan xén, hoà quyện yếu
tố chính luận và chất trữ tình khiến cho
lời nhắn nhủ về trách nhiệm đối với Đất Nước không mang tính chất giáo huấn khô
khan mà như một lời tự nhắc, tự nhủ, nó dễ đi và nhận thức và trái tim con người.
-Âm hưởng của đoạn thơ hào hùng gợi niềm ngợi ca, tự
hào về Đất Nước, về Nhân Dân.
-Những câu thơ tự do co duỗi nhị nhàng, linh hoạt và
phép điệp (điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu), phép liệt kê khẳng định mạnh
mẽ vai trò, sức mạnh và sự tiếp nối liên tục của các thế hệ nhân dân trong việc
dựng xây, vun đắp, giữ gìn Đất Nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét