HÌNH ẢNH TÂY BẮC TRONG NỖI
NHỚ CỦA NHÀ THƠ QUANG DŨNG QUA BÀI THƠ “TÂY
TIẾN”.
1.Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài về cả văn,
thơ, nhạc, hoạ. Ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của văn học Việt
Nam hiện đại. Thơ ông phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, đặc biệt, có sự kết hợp
hài hoà sự chân thật và chất tài hoa.
-Quang Dũng được nhắc đến như một nhà thơ,
một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng, đã rất thành công khi khái quát hoá
hình ảnh núi rừng Tây Bắc gắn liền với nỗi nhớ về người chiến sĩ trong đoàn
quân Tây Tiến.
-"Tây
Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời
9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên
thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm
1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng
đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
-Bài
thơ này được ông sáng tác khi rời xa đơn vị cũ mà ông từng làm Đại đội trưởng,
từng rất yêu thương, gắn bó. Bài thơ là niềm tự hào, tình yêu mến, nhớ thương
của nhà thơ về đoàn quân đặc biệt ấy nhưng cũng là nỗi nhớ tha thiết của tác
giả về vùng đất Tây Bắc. Hình ảnh Tây Bắc hiện về rất thật, rất sinh động từ
thiên nhiên, không khí núi rừng đến tình nghĩa của con người.
2.Nỗi nhớ của Quang Dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
vơi
-Mở
đầu bài thơ là tiếng gọi vọng về từ một miền kí ức làm cho nỗi nhớ thương được
nén chặt bỗng trỗi dậy, ào ạt trào dâng.
+Câu
thơ mang hình thức cảm thán như một lời tâm sự, một lời bộc bạch tình cảm, cảm
xúc. Câu thơ nhiều thanh bằng kết hợp với từ “ơi” – âm mở, tạo âm vang trầm buồn, da diết, mênh mang của cõi
nhớ.
+Nhà
thơ gọi cả đoàn quân Tây Tiến để khẳng định “Sông
Mã xa rồi”. Từ “xa rồi” gợi sự
xác nhận hiện thực: Sông Mã, Tây Tiến đã lùi và quá khứ, đã xa rồi.
+Sông
Mã là con sống có thật, mang đặc trưng Tây Bắc, khái quát về vùng Tây Bắc, nơi
mà bước chân hào hùng, đầy khát vọng của đoàn Binh Tây Tiến đã đi qua. Ở đây,
Sông Mã được nhắc đến như một nhân vật, nó gắn bó với đoàn binh Tây Tiến, chứng
kiến bao tâm tư, niềm vui nỗi buồn, những chiến công oai hùng và cả những hi
sinh bi tráng của đoàn binh. Nó được đặt ở đầu câu thơ thứ nhất để mở đầu bài
thơ, nó nhấn mạnh, chứng tỏ rằng nó là điểm về, điểm đến trong nỗi nhớ của nhà
thơ Quang Dũng. Nhớ về Sông Mã là nhớ về vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên.
Điều này dễ hiểu vì Quang Dũng cũng như những người lính Tây Tiến ra đi kháng
chiến khi họ còn là những học sinh, sinh viên nơi mái trường, góc phố nào đó
của Hà Nội thì ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ chắc chắn là những
hiểm nguy, gian khổ, những thử thách mà họ đã vượt qua.
-Câu
thơ thứ hai khái quát về đối tượng, sắc thái của nỗi nhớ. Điệp từ “nhớ” nhấn mạnh cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Nỗi nhớ của tác giả cứ
ào ạt, chồng chất. Những kỉ niệm của rừng xưa núi cũ cứ thế chảy vào trong thơ
Quang Dũng rất tự nhiên từ khái quát đến cụ thể rồi đan xen cả hai.
+Tác
giả nhớ về “rừng núi”, về những cánh
rừng bát ngát mênh mông, những ngọn núi sừng sững dốc đứng, nhớ về sự trập
trùng những gian nguy, thử thách của đoàn binh Tây Tiến.
+Cụm
từ “nhớ chơi vơi” được sử dụng rất
tinh tế và phù hợp. “Chơi vơi” là nỗi
nhớ không có hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được, nó lửng lơ,
bồng bềnh mà đầy ắp. Nó là nỗi xúc động cao độ, không kìm nén được, nó bồi hồi,
bối rối. Nó gợi ra trạng thái của nỗi nhớ mênh mang, da diết, sâu lắng.
-Từ “chơi vơi” còn gợi ra hình dung về không
gian mênh mang, cao rộng và bềnh bồng trong mưa sương của núi rừng.
-Sự
kết hợp từ “chơi vơi” với từ “ơi”, điệp từ “nhớ” và câu thơ nhiều thanh bằng gợi ra độ sâu, chiều dài, độ rộng
của nỗi nhớ: nhớ trong sâu thẳm, nhớ bởi tình cảm thiết tha, có chút bồi hồi,
cháy bỏng, khôn nguôi trong lòng tác giả. Bao nhiêu kỉ niệm về một thời trận
mạc ở vùng đất xa xôi đã bừng sống dậy, gần gũi, thân thiết.
3.Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả
một không gian xa xôi, hiểm trở. Không gian ấy được gợi ra bởi các địa danh.
-Những
tên đất tên làng, tên bản mường của rừng xưa núi cũ hiện về sống động, thân gần
làm xao xuyến tâm hồn.Những cái tên Sài
Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… nó cũng gợi về sự xa ngái, lạ lẫm,
có phần nào đó hoang sơ. Chúng cũng gợi về không gian chứa đựng nhiều bí ẩn gợi
khat khao khám phá. Nhắc tên những địa danh cũng là tâm lí thường tình của con
người khi xa những vùng đất mà mình từng gắn bó, từng yêu mến. Nhà thơ Chế Lan
Viên trong “Tiếng hát con tàu” khi xa Tây Bắc, nhớ về ông cũng viết:
Nhớ bản sương giăng nhớ đèo
mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng
yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm
hồn.
-Nhà
thơ Quang Dũng đã điểm từng cái tên, gọi từng vùng đất để khẳng định nỗi nhớ
của ông không trao gửi một cách chung chung, vu vơ mà gửi vào từng địa chỉ cụ
thể. Bởi mỗi địa danh ấy, mỗi cái tên ấy đều gắn với những kỉ niệm về đoàn binh
Tây Tiến, đều mang một phần tình cảm, trái tim của nhà thơ Quang Dũng.
-Sự có
mặt của những địa danh này trong bài thơ nó vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa khái
quát. Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh, những vùng đất vời vợi nghìn
trùng từng in dấu chân của đoàn binh Tây Tiến…
-Tác
giả nhắc đến nhiều tên đất, tên bản như vậy cho thấy nỗi nhớ của Quang Dũng
càng lúc càng trải rộng khắp địa bàn Tây Bắc, những chặng đường hành quân gian
khổ, hào hùng mà bản thân nhà thơ cùng đồng đội đã đi qua. Những tên đất tên
làng ấy nó đã vượt xa ý nghĩa về địa lí, nó mang tâm hồn của nhà thơ, của đoàn
quân Tây Tiến.
=>Những
kỉ niệm trong quá khứ tràn về tươi nguyên, sống động, rõ nét. Mỗi địa danh, mỗi
bản mường ấy đều mang những đặc điểm, những ấn tượng khó phai. Nhà thơ Quang
Dũng phải yêu mến lắm, phải sống sâu sắc lắm, gắn bó với mảnh đất ấy lắm nên
khi chia xa, nhớ về, nó hiện lên mới cụ thể, chân thật, sống động đến thế: từ
núi cao, dốc thẳm, vực sâu, thác gầm, cọp dữ đến sương rừng mưa núi, những vẻ
đẹp mĩ lệ, duyên dáng và tình nghĩa thắm thiết.
3.Tây Bắc với thiên nhiên hoang sơ, dữ dội,
hùng vĩ và huyền bí.
Trong
nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng, thiên nhiên Tây Bắc mang những nét hoang sơ, dữ
dội và huyền bí, hùng vĩ. Nó hiện lên qua những dốc núi, sương rừng, thác gầm,
cọp dữ.
-Vẻ
hoang sơ, dữ dội được gợi lên trước hết bởi hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi”. Hình ảnh này gợi hình dung cho người đọc
về những cánh rừng già âm u quanh năm mưa sương giăng mắc, mây mù bao phủ. Nó
gợi về vẻ lạnh lẽo, hoang vắng. Nó gần như một vùng đất hoang sơ chưa từng in
dấu chân người, đồng thời nó giúp cho ta hình dung về sự khắc nghiệt của thời
tiết nơi đây – “mưa nguồn suối lũ những
mây cùng mù”.
-Sự
hoang sơ, khắc nghiệt lại được đan xen bởi những ấn tượng về sự tươi mát, nhẹ
nhàng, nên thơ:
Mường Lát hoa về trong đêm
hơi
Những
con đường rừng đêm với những làn sương mờ mát dịu, những cánh hoa dịu dàng,
hương thơm ngào ngạt và đầy tràn sức sống.
Trong câu thơ này, nhà thơ Quang Dũng
lựa chọn từ ngữ thật công phu, đầy ấn tượng: “hoa về trong đêm hơi”. Nếu ta thay thế bằng những từ ngữ khác: “hoa nở”, “đêm sương” thì ý thơ sẽ khác
hẳn. Nó chỉ đơn thuần là sự miêu tả hiện thực, hơn nữa “hoa nở trong đêm sương” thì khắc nghiệt quá, có cảm giác như những
cánh hoa mỏng nhẹ đang bị những làn sương đêm lạnh lẽo vùi dập, nên bức tranh
này sẽ không còn vẻ nên thơ, lãng mạn nữa. Còn “hoa về trong đêm hơi” thì rất nhẹ nhàng, bông hoa cánh mỏng được
nâng niu, bao bọc bởi hơi sương mát dịu, hơi sương và hoa hài hoà với nhau. Hơi
sương làm cho những bông hoa tươi hơn, sống động hơn, giúp cho hương hoa lan
toả rộng và thấm sâu hơn trong không gian. Trong hoa có sương mà trong màn
sương mỏng vẫn thấy những bông hoa mà còn là “hoa về”. Hoa và sương như gắn bó không thể tách rời. Dường như ở
chốn này, Mường Lát, chỉ đêm xuống, có hơi sương thì những bông hoa rừng này
mới bung nở toả hương (Hơn nữa, chữ “hoa
về” còn gợi hình dung về những ngọn đuốc trên đường hành quân đêm khi chiến
sĩ Tây Tiến đang tiến bước về một bản làng, hay vẫn băng rừng mà đi.Con người
và thiên nhiên chan hoà tuyệt diệu…).
-Tác
giả nhớ về địa bàn Tây Bắc với sự hài hoà của những dốc núi khúc khuỷu, thăm
thẳm và màn mưa rừng sương núi mênh mang mờ ảo.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm
thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi
trời
Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi.
-Câu
thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.
+Từ “dốc” vốn
gợi độ cao, ở đây, nó còn điệp lại và kết hợp với từ “lên”, với những từ láy tạo hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) chỉ đặc
điểm nên nó làm sống dậy con đường hành quân của chiến binh Tây Tiến gập ghềnh,
đầy hiểm trở và trải dài vô tận.
+Những
thanh trắc gối đuổi nhau dày đặc trong câu thơ tạo âm điệu trúc trắc, khiến cho
bản thân câu thơ cũng ghập ghềnh liên tiếp, cũng lên xuống bất ngờ. Nó cũng như
khúc khuỷu, như bị cắt đoạn giống
đường dốc núi trập trùng. Từ “dốc” đã
ngắt câu thơ làm hai nửa, hai chặng liên tiếp và bất ngờ. Nó mang dáng dấp của
địa hình.
-Không
gian còn cao rộng hơn trong câu thơ “Heo
hút cồn mây súng ngửi trời”. Bức tranh được lấy chất liệu từ hiện thực
nhưng được thể hiện qua tâm hồn lãng mạn và thủ pháp nghệ thuật cường điệu của
tác giả nên nó có ấn tượng sắc nét. Bóng người như in trên cồn mây, cây súng
của các người lính trẻ này như được trêu đùa, khám phá không gian cao rộng cảu
bầu trời, của vũ trụ. Nhà thơ có cách đo độ cao đặc biệt bằng cái nhìn trẻ
trung, tinh nghịch, hồn nhiên của những người lính trẻ lãng mạn.
+ Từ
láy “heo hút” cùng phép đảo ngữ thể
hiện cái vắng vẻ, nguy hiểm, cao chót vót và xa đến không cùng. Động từ “ngửi” được sử dụng rất ấn tượng. Nếu
thay thế bằng một từ ngữ khác trong trường hợp này: “chạm”, “đụng tới” thì câu thơ chỉ đơn thuần tả độ cao và ý thơ vì
thế mà yếu đi, giảm giá trị gợi cảm của nó. Chữ “ngửi” thực ra nó không mang chất thơ, nó còn có vẻ dung tục nữa, nếu
không khéo léo trong cách sử dụng thì ý thơ trở nên nhạt nhẽo. Nhưng qua tài
năng và sự chân thật của Quang Dũng thì chữ “ngửi” trong câu thơ này nó lại gieo vào lòng người đọc những ấn
tượng đặc biệt, khó phai.Từ “ngửi” gợi được độ cao đến chóng mặt lại gợi được
một không gian mênh mông và sự vận động của các đối tượng đang được miêu tả.
+Chữ “heo hút” kết hợp với hình ảnh “cồn mây” và cụm từ “súng ngửi trời” gợi cho ta cảm giác về độ cao, chiều sâu đến không
cùng của đèo, dốc, núi.
-Song
bức tranh về dốc núi chưa dừng lại ở đó, vì sự khái quát chưa đầy đủ. Nhà thơ
tiếp tục đưa người đọc cùng hành quân với bước chân Tây Tiến để thấy sự hùng vĩ
của núi rừng Tây Bắc: “Ngàn thước lên cao
ngàn thước xuống”.
+ Từ “ngàn” là sự định lượng mang tính ước lệ
được điệp lại thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên, dốc núi Tây Bắc đồng thời
báo trước những khó khăn, thử thách liên
tiếp cho người lính. Cùng với nhịp thơ 4/3, nó bẻ gãy câu thơ làm đôi kết hợp với động từ thể
hiện sự chuyển động ngược hướng “lên –
xuống” đã diễn tả sự cheo leo, chênh vênh, sự thay đổi nhanh đến chóng mặt
của những dốc núi vùng Tây Bắc, dốc núi
vút lên đổ xuống gần như thẳng đứng. Nhìn lên cao chót vót, heo hút, chênh
vênh, nhìn xuống sâu thăm thẳm, mênh mông không cùng.
+Thực
ra, ý của câu thơ này là sự điệp lại ý của những câu thơ trên. Nhưng nghệ thuật
điệp của nhà thơ rât tinh tế, sáng tạo đòi hỏi người đọc thơ phải tinh, phải
nhạy về từ ngữ, về hình ảnh mới nhận ra được. Ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao
và sâu. Nhìn lên cao vời vợi, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Dốc tiếp dốc, vực tiếp
vực. Sự lặp lại của ý thơ nhấn mạnh vào sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây cũng
là nhấn mạnh vào những thử thách chồng chất mà người lính phải vượt qua.
(So
sánh với những câu thơ trong trường ca “Từ
đêm 19” của Khương Hữu Dụng ta sẽ thấy dốc núi trong những câu thơ này điệp
trùng, hùng vĩ hơn rất nhiều:
Đây cao vòi vọi dốc Ông
Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường
chim)
Ba câu
thơ này đã diễn tả dốc, đèo, núi, vực ở độ cao, độ dốc và chiều sâu khủng khiếp
của nó. Chỉ ba câu thơ này thôi, người đọc cũng hình dung ra được chặng đường
hành quân của Tấy Tiến hiểm trở, gập
ghềnh và trùng trùng khó khăn như thế nào mà khâm phục tinh thần vượt khó của
đoàn quân này.
-Câu thơ tiếp theo trong bức hoạ độc đáo về địa hình
Tây Bắc:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
+ Câu
thơ toàn thanh bằng với những âm tiết mở diễn tả không gian mênh mông trải rộng
trong màn mưa và cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản của người chiến sĩ sau những
chặng đường hành quân vất vả. Người đọc hình dung trong những chặng đường hành
quân, người lính như đang dừng ngang một con dốc nào đó phóng tầm mắt ra xa mà
ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc, ngắm nhìn những nếp nhà sàn đơn sơ, giản dị,
những bản mường bình yên thấp thoáng trong màn mưa sương của núi rừng nơi đây. Sự
liên tưởng độc đáo “mưa xa khơi” diễn
tả không gian bồng bềnh trong màn mưa rừng khiến cả thung lũng trở thành đại
dương mênh mông còn những ngôi nhà như những con thuyền nhỏ bồng bềnh trôi
trong đại dương ấy.
(Nhiều
bạn đọc vẫn cho rằng ba câu thơ trên nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới của
những hiểm trở đến khủng khiếp song lại tạo ra những câu thơ toàn thanh bằng để gợi cảm giác nhẹ nhõm,
thăng bằng cho người đọc.)
-Vùng
đất Tây Bắc còn mang những nét dữ dội và đầy bí hiểm. Nó lưu giữ những cảm xúc,
ấn tượng sâu đậm, sắc nét trong tâm trí những người đã đến, đã đi qua. Nó cũng
gợi những khát khao khám phá cho những người từng đọc những dòng thơ rất mực
tinh tế, lãng mạn và tài hoa này. Đi qua những độ cao không cùng và những màn
sương mỏng đẹp nên thơ, chúng ta được đặt chân đến một thế giới âm u, bí ẩn của
rừng già với những âm thanh, hình ảnh hoang dã của tự nhiên:
Chiều chiều oai linh thác
gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
người
Những
gian nan, thử thách, nhọc nhằn dọc đường hành quân hằn in sâu trong tâm cảm,
trong nỗi nhớ của những chàng lính trẻ vừa rời thành phố xinh đẹp của mình đến
một nơi xa xôi và khắc nghiệt ngoài trí tưởng tượng của họ. Thử thách đâu phải
chỉ ở không gian với độ cao rộng không cùng mà còn được gợi ra theo chiều thời
gian. Từ ngữ “chiều chiều”, “đêm đêm”
gợi thời gian nối tiếp liên tục. Ngày nối ngày, đêm tiếp đêm, sự nguy hiểm luôn
đe doạ, rình rập các chiến sĩ trẻ. Khi chiều đến, lúc đêm về, núi rừng Tây Bắc
như hiểm trở hơn, không còn thấy “hoa về
trong đêm hơi”, hoặc những mái nhà thấp thoáng trong màn mưa mỏng mà chỉ
thấy một không gian mênh mông, âm u và ghê rợn. Tiếng gầm thét dữ dội của những
con thác dữ kết hợp với tiếng gầm rú rùng rợn và bước chân rình mồi của những
mãnh thú lang thang tung hoành ngang dọc trong rừng thẳm như đang hù doạ, như
đang muốn ngăn chặn bước chân Tây Tiến. Thiên nhiên thật bí hiểm, trong cái vẻ
lặng lẽ, âm u của rừng lại vang lên những âm thanh đầy ghê rợn. Những từ ngữ
trong câu thơ này được sử dụng rất tinh tế: “oai linh”, “gầm thét” gợi hình dung về sự dữ dội, sức mạnh thiêng
liêng và quyền uy thầm kín của những con thác. Thác nước ào ào, xối xả từ trên
cao dội xuống trong không gian mênh mông của núi rừng có sức vang động ra xa,
nó không chỉ “gầm” mà còn “thét” làm cho sức mạnh của nó tăng lên
gấp bội. Những từ ngữ ấy kết hợp với các thanh trắc và sự lặp lại của âm “th” (“thác”, “thét”) nghe nặng trịch,
sâu thẳm, thêm vào đó là cụm từ “cọp trêu
người” và những thanh trắc ở giữa câu thơ (“Hịch”, “cọp”) khiến ta hình dung được những thử thách với đoàn quân
Tây Tiến là liên tiếp, chống chất. Hai câu thơ này có nhiều thanh bằng nhưng
khi đọc lên nó cũng không dịu tai mà nó vẫn mang những vẻ trúc trắc, nặng nề.
=>Cách
miêu tả của Quang Dũng thật chân thực, sống động. Đúng là một ngòi bút tinh tế,
tài hoa. “Thơ là tấm lòng nhưng trước hết
thơ là cuộc sống”. Thơ ca đúng là luôn bắt rễ từ cuộc sống, nhưng hiện thực
cuộc sống khi đi vào thơ ca đã được khúc xạ qua tâm hồn của người làm thơ, nó
in đậm dấu ấn cảm xúc cá nhân của người cảm nhận. Hiện thực dữ dội ở núi rừng
Tây Bắc đã bắt gặp được một tâm hồn tinh tế, một tấm lòng chân thật và một tài
năng độc đáo nên nó hiện lên rất “sống”,
rất “thật”. Một tâm hồn lãng mạn, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, gắn bó
với hoàn cảnh thực nên khi xa địa bàn Tây Bắc, xa vùng chiến địa cũ, những gì
còn đọng lại, lưu giữ lại đều là những nét dữ dội nhất, thơ mộng hoặc đẹp đẽ
nhất.
4. Nỗi nhớ của Quang Dũng
về một Tây Bắc thơ mộng, duyên dáng, tài hoa và giàu tình nghĩa.
-Từng
là một người lính trong đoàn binh Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng cũng đã đi cùng
đồng đội suốt cuộc hành trình gian khổ và hào hùng. Ông không chỉ cảm nhận và
ghi dấu đậm nét về thiên nhiên đa dạng, phong phú của Tây Bắc, ông còn nhớ đến
cảnh sống, tình người và sự hoà hợp giữa người và cảnh ở nơi đây. Thiên nhiên
với không gian mênh mông và đẹp dữ dội, đẹp thơ mộng nhưng con người mới là
trung tâm của núi rừng. Họ duyên dáng, tài hoa và giàu tình nghĩa.
+Ấn
tượng về Mai Châu trẻ trung, thảo thơm và ấm áp tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói
Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi
Đó là một kỉ niệm sâu sắc. Trong thiếu
thốn, gian khổ, trong những chồng chất thử thách người ta càng nâng niu, quý
trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng nếp xôi thơm
và đặc biệt là “em” – biểu tượng cho
con người Tây Bắc chân chất nghĩa tình – hiện về trong nỗi nhớ, trong cảm xúc
của nhà thơ vừa thật tự nhiên vừa rất tinh tế. Bản làng và bộ đội chan hoà cùng
cuộc sống giản dị, không khí ấm cúng của cuộc sống đời thường đẹp mặn nồng khó
phai.
+Trong
những chặng đường hành quân gian lao, có lúc người Tây Tiến đã kiệt sức đến tận
cùng và đã vĩnh viễn nằm lại nơi chân đèo dốc núi để lại niềm thương tiếc, đau
xót vô ngần cho đồng đội, nhưng không vì thế mà đoàn quân nản lòng lùi bước. Họ
vẫn quyết tâm vượt qua thử thách, làm chủ hoàn cảnh, họ bước chân lên thì phía trước là đích đến. Tạm dừng
chân nơi một bản mường giữa núi rừng hoang lạnh, họ đã được tiếp đón ân cần,
cởi mở trong một không khí gia đình ấm cúng, thân gần. “Cơm lên khói”, “thơm nếp xôi” là hương vị của cuộc sống giản dị,
đời thường nhưng giàu đậm tình người. Con người Tây Bắc đã tiếp thêm sức mạnh,
động lực cho Tây Tiến vượt lên những thử thách phía trước. Ánh mắt, niềm vui,
tiếng nói cười và nếp sống giản dị mà nặng nghĩa đậm tình ở nơi đây đã gợi về
cảnh sống bình yên đáng quý. Trong hành trình giữa một vùng hoang vu, lạnh lẽo,
vắng vẻ của Tây Bắc, các anh khao khát được thấy con người, thấy dấu ấn của sự
sống. Kỉ niệm ấm áp của một nơi nghỉ chân như thế này đã xua tan cảm giác sợ
hãi về rừng thiêng xứ lạ, giảm sự mệt mỏi cho các anh, đồng thời nó còn đem đến
cho các anh động lực, niềm tin hướng về phía trước. Đó cũng là mơ ước, hoài bão
của người lính Tây Tiến, của những người đi chiến đấu bảo vệ đất nước quê hương
nói chung trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Các anh đi chiến đấu, các
anh sẵn lòng dâng hiến “đời xanh”, hi
sinh cuộc đời mình cũng là để bảo vệ nhịp sống thanh bình, giản dị ấy cho nhân
dân.
-Tây
Bắc tài hoa, duyên dáng, nghĩa tình còn được thể hiện bằng những hình ảnh, bức
tranh tuyệt diệu:
Doanh trại bừng lên hội
đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ
Người đi Châu Mộc chiều
sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc
mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong
đưa
+Đó là
kỉ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đặc sắc ở núi rừng Tây Bắc. Quang Dũng rất
dụng công trong cách lựa chọn từ ngữ. Hàng loạt từ ngữ tạo hình, giàu cảm xúc,
tinh tế, tài hoa: “bừng lên”, “hội – đuốc
– hoa”, “kìa”, “tự bao giờ”, “xiêm áo”, “e ấp”, “man điệu”… gợi cảm xúc,
thái độ đón nhận của người chiến sĩ trước tình cảm đồng bào bản xứ dành tặng.
+Câu
thơ “Doanh trại dừng lên hội đuốc hoa”
gợi cảm giác đột ngột bừng sáng. Chữ “bừng
lên” diễn tả tính chất đột ngột vừa bất ngờ vừa thú vị. Nó như một sự
chuyển động rât nhanh, rất mạnh mẽ của cảnh, của cả không gian. Không gian ngập
tràn sức sống. Cả cảnh vật, ánh mắt và lòng người đều bừng sáng lên.
(Chúng
ta đã gặp chữ “bừng” trong thơ Tố Hữu
khi nhà thơ trẻ, người chiến sĩ trẻ đang “băn
khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” thì bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng nên cảm
thấy tâm hồn bừng sáng lên lạ thường:
Từ ấy trong tôi bừng nắng
hạ
Mặt trời chân lí chói qua
tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng
chim
Trong
bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, chữ “bừng lên” dùng để diễn tả niềm hạnh phúc, niềm hi vọng của bà mẹ
quê hương khi đàn con, khi bộ đôi bên sông trở về giải phóng quê hương trong
tâm tưởng của nhà thơ:
Hé một cánh liếp
Con vào đây bốn phía tường
che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng
trăng)
Chất tài hoa, lãng mạn trong bút pháp
của Quang Dũng càng lúc càng bộc lộ một cách thú vị. Hai cụm từ “bừng lên” và “hội đuốc hoa” rất tinh tế. Nó vừa có tính tả thực vừa đậm chât
lãng mạn. “Bừng lên” vừa có ý nghĩa
bừng sáng lung linh vừa như “bừng tỉnh”.
“Hội đuốc hoa” ở đây là cảnh thực.
Đêm liên hoan văn nghệ giao lưu mừng dịp gặp mặt quân dân có sự chuẩn bị chu
đáo của người dân bản địa diễn ra trong doanh trại bộ đội giữa những cánh rừng
(mênh mông bạt ngàn sương mưa lạnh lẽo và thác dữ thú hoang). Những người đến
dự đều mang theo ngọn đuốc trên tay.Trong làn sương mở ảo, những làn gió làm
lay động ngọn lửa đuốc khiến nó bập bùng, lung linh. Ngọn đuốc ấy giờ giống như
những bông hoa rừng lung linh, huyền ảo giữa núi rừng Tây Bắc đầy sức sống và
khao khát hoà bình, nó đẹp kì lạ, nó là những hoa đuốc – “đuốc hoa”. Không gian thơ mộng và huyền ảo. Quang Dũng cảm nhận
tinh tế và lãng mạn thật. Ông đã đưa
người đọc vào một thế giới ánh sáng rực rỡ, lung linh như trong cõi mộng.
+Trên
nền không gian ấy, con người – “em” –
xuất hiện. “Em” đã trở thành trung tâm của bức tranh rừng đêm, thành tâm điểm
thu hút mọi ánh nhìn:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên
sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen
mà lạ. Ông thật sự xúc động trước sự
chuẩn bị bất ngờ, chu đáo của em, của nhân dân nơi đây. Ông rất yêu mến, kính
trọng tình nghĩa của nhân dân dành cho Tây Tiến .Nhà thơ Quang Dũng đã viết thơ
bằng cả tấm lòng thơ chân thật của mình. Dòng thơ nào, từ ngữ nào, hình ảnh nào
cũng giàu sức gợi, cũng đem đến cho người đọc sự hiểu biết lí thú, những cảm
xúc phong phú. Ở đây, ông đã phát hiện ra vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ của các thiếu
nữ miền sơn cước bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ dáng vẻ
đến trang phục. Quang Dũng đã dùng từ “xiêm áo” chứ khoogn phải là “quần áo”, hay “váy áo”. “Xiêm áo” là một
từ cổ dùng để chỉ sự chuẩn bị một cách cẩn thận, trang trọng về trang phục
trong một dịp đặc biệt hoặc quan trọng của cuộc sống. Ở đây, khi đến với ngày
hội gặp mặt quân dân này, “em” cũng
đã chuẩn bị rất chu đáo, em rất đẹp. Tình người, lòng nhiệt tình, tình yêu
người chiến sĩ bảo vệ quê hương làm cho em đẹp hơn lên rất nhiều. Trong đêm hội
này, các sơn nữ đã vận trang phục truyền thống mang đậm màu sắc văn hoá bản địa
làm cho họ đẹp hơn rất nhiều, lộng lẫy và rực rỡ quá! Những chiến sĩ trẻ, hào hoa không khỏi thán
phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp bất ngờ ấy. “Em” còn ngập trong tiếng nhạc và say trong điệu múa. Cả ánh sáng,
dáng vẻ, màu sắc và tiếng khèn, điệu múa đã đan hoà làm một:
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ
Những
âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến
vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân
tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội
hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng
sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc
hoang dã của núi rừng, của văn hóa Tây
Bắc. Chính không khí của âm nhạc, vũ
điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến, họ thực sự ngất
ngây trước người và cảnh.
Lời thơ kì diệu quá! Tất cả đều ngất ngây,
ngả nghiêng theo tiếng nhạc, điệu múa, đều hoà trong không gian văn hoá, đều
tràn ngập chất thơ trong hồn. Tất cả đang được sống trong một không gian thanh
bình nhất. Những khoảnh khắc hiếm hoi, đáng quý này đã để lại cho Quang Dùng
cùng đoàn binh Tây Tiến những cảm xúc diệu kì, chắc chắn sẽ lưu giữ mài trong
tâm hồn khi xa Tây Bắc.
Sẽ rất thiếu sót nếu
như chúng ta dừng lại ở đây. Ngòi bút tài hoa lãng mạn của Quang Dũng còn
bắt rất nhạy với một làn sương chiều mỏng, những cành lau phơ phất, hắt hiu
trong gió nhẹ. Bức tranh Tây Bắc thơ mộng,
duyên dáng còn được thể hiện trong những câu thơ tuyệt đẹp, gợi cảm giác mênh
mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một
không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực
của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng khói sương chiều mỏng
hài hoà vào nhau như trong một không gian cổ tích. Không gian dòng sông, triền
suối, cánh rừng có nét gì đó hoang dại như một miền tiền sử. “Hồn lau” gợi về cây cỏ thiên nhiên, nó
gợi về đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc, một vẻ đẹp nhẹ nhàng đầy chất thơ.
Những bông lau không vô tri vô giác mà trong cảm hứng lãng mạn của nhà thơ
Quang Dũng, một hồn thơ hào hoa đa cảm đã cảm nhận được hồn lau, vẻ đẹp nên thơ
của những bông lau, vạt lau trắng xám miên man, giăng mắc khắp dọc nẻo bến bờ,
khắp triền sống, rìa suối...
+Vẻ
đẹp diễm lệ của thiên nhiên còn được thể hiện qua sự xuất hiện của con người:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tác
giả đắm say ngây ngất trước cảnh, trước người. Dáng người đang điều khiển con
thuyền độc mộc trên dòng nước lũ rất uyển chuyển, linh hoạt, duyên dáng. Họ
đang lái con thuyền vượt qua dòng thác lũ mà cứ như nó đang trôi trên dòng nước
vậy. Thật đẹp đẽ, duyên dáng và nhẹ nhàng. Dòng thác lũ cũng như phải cúi đầu
cảm phục sự chủ động và khéo léo của con người nơi đây. Cảnh ở đây hài hoà và
như cũng làm duyên với con người – “hoa
đong đưa”. Những bông hoa rừng dọc các triền suối, bờ sông cũng mang hồn
sống động. Nó cũng như yêu mến, cảm phục con người lắm lắm! Những cánh hoa khẽ
lay trong gió cũng như đang “đong đưa”
tình tứ với con người. (Hay chính con người tài hoa, lãng mạn rất bình tĩnh
trước tình huống khó khăn kia cũng đang thấy vẻ đẹp đong đưa, duyên dáng đầy bí
ẩn của những bông hoa rừng, của thiên nhiên quê hương).
Quả
đúng là một sự thiếu sót lớn khi người đọc theo hành trình của bước chân Tây
Tiến mà chỉ dừng lại ở những con dốc cao chạm mây trời, những hiểm nguy cheo
leo của đèo, núi… Bởi đó chỉ là một phần
nhỏ của bức tranh về vùng đất Tây Bắc mà nhà thơ tài hoa phác lại trong nỗi nhớ
về núi rừng nơi đây. Chúng ta chắc không thể quên Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài,
trong thơ ông chất hoạ khá rõ. Chất hoạ trong bức tranh thiên nhiên nhiên, vùng
đất Tây Bắc được hình thành từ những cảm xúc mãnh liệt, thơ thiết nhớ của ông:
“nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Bức
tranh đẹp tuyệt diệu về nơi này vừa được phác bằng những nét bạo, khoẻ, gân
guốc được kết hợp với những nét mềm mại uyển chuyển và những mảng màu dịu nhẹ,
tinh tế…
5.
Nhà thơ Quang Dũng thật sự đã đem đến cho người đọc một cuộc hành trình đầy thú
vị về Tây Bắc, đem đến cho chúng ta một bức tranh tuyệt đẹp về núi rừng nơi đây
với thiên nhiên dữ dội, hoang sơ, hùng
vĩ và đầy bí hiểm nhưng cũng rất thơ mộng, mĩ lệ và duyên dáng, con người tài
hoa, chân thành và đậm nghĩa nặng tình, yêu cuộc sống, yêu hoà bình. Tây Bắc xa
xôi, lạ lẫm là thế mà qua nỗi nhớ của Quang Dũng cùng hồn thơ lãng mạn tài hoa
của ông, nó hiện lên thật đẹp và gần gũi, đem lại những hiểu biết lí thú và
những cảm xúc thú vị cho người đọc.
Bài viết hay quá ạ. Rất cảm ơn chủ blog đã chia sẻ ^^
Trả lờiXóa