GIÁ
TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO CỦA TÁC PHẨM “VỢ
NHẶT” (KIM LÂN).
1.Giá trị hiện thực: bản chất của
hiện thực nạn đói lịch sử và số phận con người:
a.Tác
phẩm đã tái hiện được bối cảnh hiện thực rộng lớn, quan trọng của một giai
đoạn lịch sử: nỗi khổ, tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói do tội ác
của bọn phát xít, thực dân và phong kiến tay sai gây nên.
- Hiện thực
này được biểu hiện thông qua những cảnh tượng, những hình ảnh chân thực đến
nhói lòng: khung cảnh một xóm ngụ cư:
+ những
người sống đói khát bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, hoặc nằm
ngổn ngang khắp các lều chợ, hoặc đi lại dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma.
+ người chết như ngả rạ, ngày nào cũng có những cái thây nằm còng queo bên đường.
- Toàn cảnh
bức tranh hiện thực ấy hiện lên qua những chi tiết đầy ám ảnh, nhức nhối:
+ không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người; mùi đống rấm khét
lẹt, tiếng hờ khóc não nuột, xót xa trong đêm...
+ không gian
tối sầm lại vì đói, không nhà nào có ánh đèn, lửa…
- Cái đói đã
trở thành nỗi đe doạ lớn lao đối với sinh mệnh của từng người, của cả dân tộc.
Gia đình nhỏ bé của Tràng là một phần của bức tranh toàn cảnh thê thảm, khủng
khiếp ấy.
=>Những
hình ảnh trong tác phẩm phản ánh rõ rệt cái không khí thê lương, ảm đạm, chết
chóc, cái thảm cảnh kinh hoàng trong cái giây phút rùng mình của lịch sử - nạn
đói 1945.
b. Tác
phẩm còn khắc hoạ rõ nét cảnh ngộ của những con người nhỏ bé, cảnh ngộ của
một gia đình trong cơn lốc xoáy của nạn đói lịch sử:
- Nỗi bất
hạnh hằn sâu trong từng con người qua hình ảnh những người dân xóm ngụ cư:
gương mặt hốc hác, u tối vì đói khát;
đám trẻ con chẳng đứa nào buồn nhúc nhích, chúng ngồi ủ rũ dưới những xó đường…
- Hình ảnh
người vợ nhặt của Tràng hiện lên thật thương tâm: chị ấy chao chát, chỏng lỏn
và đánh mất cả chất nữ tính vốn có để được ăn, được sống. Chị ấy bám lấy Tràng
để cố vượt qua cơn đói khát, chị đã theo không Tràng về không cần lễ nghĩa,
cưới xin gì. Người đàn bà ấy về nhà Tràng trong bộ “quần áo cưới” rách tả tơi
như tổ đỉa, với cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt, với hình dạng
người gầy sọp đáng thương.
- Tràng và
người mẹ của mình sống trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu vẹo, điêu tàn trong
không gian hoang dại, không có dấu ấn của sự sống. Ngôi nhà ấy có thể đổ xuống
bất kì lúc nào cũng giống như sinh mệnh con người trong nạn đói khủng khiếp lúc
đó.
- Tràng,
người mẹ và người vợ nhặt của anh đã bám víu vào nhau dưới mái nhà tồi tàn
nhưng cái đói, nỗi tủi cực đã khiến cho tất cả đều có cảm giác chua xót, bẽ
bàng – miếng cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ.
=> Bức
tranh hiện thực được khắc hoạ rõ nét ở toàn cảnh và cả cận cảnh, ở số phận của
từng con người.
c. Tác
phẩm còn gợi ra một viễn cảnh, một xu hướng tất yếu của lịch sử qua hình
ảnh ở phần kết thúc truyện: câu chuyện phá kho thóc Nhật chia cho người đói, hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ. Hình ảnh đó không được
miêu tả trực tiếp, đậm nét nhưng được gợi lên từ toàn bộ không khí, cảnh tượng
của đời sống hiện thực trong tác phẩm. Trong hoàn cảnh cái chết đe doạ, rình
rập từng giây phút, mạng sống của mỗi người trở nên quá mong manh ; cả cộng
đồng, cả dân tộc chỉ còn cách duy nhất là vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống.
2. Giá trị nhân đạo: Tác phẩm Vợ
nhặt tố cáo tội ác của bọn phát xít, thực dân và phong kiến tay sai, và cao cả,
sâu sắc hơn là khẳng định vẻ đẹp của tình người, niềm khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc của con người trong hoàn cảnh éo le.
a. Tác giả thể hiện thái độ đồng cảm với
cảnh ngộ, số phận của người lao động nghèo: miêu tả chân thực tình cảnh
thê thảm của nạn đói ở xóm ngụ cư; tình cảnh đáng thương của người đàn bà - vợ
nhăt của Tràng; bữa cơm đầu tiên của cuộc sống mới ở gia đình Tràng đầy đắng
chát, tủi thẹn… Đằng sau những hình ảnh đầy ám ảnh, nhức nhối ấy là cả một nỗi
lo lắng của nhà văn Kim Lân cho sinh mạng của con người, là cả một niềm cảm
thông sâu sắc, tình yêu thương chân thành.
b. Tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của tình người, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin của người lao động qua việc tác giả thấu hiểu nỗi lòng,trân trọng niềm vui,
hạnh phúc bình dị của những người nghèo
khổ.
* Diễn tả
tinh tế cảm xúc vui mừng, tâm trạng mới lạ của nhân vật Tràng khi đón nhận
niềm hạnh phúc bất ngờ, lớn lao.
- Tình huống
nhặt được vợ của Tràng cũng được xây dựng trên cơ sở tình yêu thương, sự đùm
bọc, sẻ chia và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. “Vợ nhặt” không chỉ là sự rẻ rúng, bi
thảm trong số phận con người mà “vợ nhặt”
còn đề cập tới một tình cảm con người rất cao đẹp, đó là tình vợ chồng, là mối
quan hệ gắn kết bền chặt giữa người với người. Và để đi tới quan hệ này, đối
với Tràng là một điều không hề đơn giản dù rằng tính tình anh rất đơn giản. Vợ
là điều Tràng ao ước, khao khát bấy lâu nhưng không thể có được (anh xấu trai,
nghèo, là dân ngụ cư, lại gặp nạn đói…). Vì thế khi có người vợ dù là vợ theo không thì anh cũng rất trân
trọng cô ấy và trân trọng, nâng niu hạnh phúc của chính anh.
- Anh tinh
tế và chu đáo khi dẫn người vợ nhặt vào chợ mua cho cô ấy một cái thúng con
đựng vào thứ lặt vặt và dẫn cô ấy ra hàng cơm ăn một bữa thật no nê rồi dẫn
nhau về nhà, trên đường về anh còn bỏ tiền ra mua hai hào dầu để thắp “tối tân
hôn”. Những cử chỉ, hành động ấy của Tràng thật cao đẹp và xúc động vô cùng.
Trong hoàn cảnh cái đói đe doạ từng giây phút mà anh không hắt hủi, ruồng rẫy
người đàn bà xa lạ theo anh về, sẵn lòng đem thêm một miệng ăn về nhà anh, anh lại còn
trân trọng cô ấy nữa thì thật đáng quý, đáng trọng. Biết rằng lấy nhau trong
những ngày đói ghê gớm này sẽ có nhiều tủi thẹn nên trong điều kiện có thể của
Tràng thì một cái thúng con, một bữa cơm no nê, một chai dầu nhỏ cũng là một
điều cố gắng lớn. Tràng đã dũng cảm dám mua dầu thắp tối cũng là tránh cho
người vợ của mình nỗi tủi thẹn, quan trọng hơn anh có niềm tin mãnh liệt vào sự
sống, vào sức mạnh của hạnh phúc, của tình người.
- Anh phấn
chấn, hãnh diện khi đưa người vợ nhặt về nhà. Khi mọi người trong xóm ngụ cư,
tò mò, phán đoán và người vợ nhặt thì ngượng nghịu chân nọ bước ríu cả vào chân
kia thì Tràng vênh vênh cái mặt lên tự đắc. Nhà văn Kim Lân đúng là rất yêu
thương con người và thấu hiểu tâm lí của những con người quê chất phác, thật
thà. Dù vẫn còn ngỡ ngàng vì sự có vợ nhanh chóng và bất ngờ của mình nhưng anh
không giấu nổi niềm hạnh phúc đang xôn xao trong lòng. Nhà văn Kim Lân đã nhập
thân và nhân vật Tràng mà diễn tả tâm trạng của anh trước niềm hạnh phúc lớn
lao ấy. Tràng sốt ruột, nôn nao chờ đợi,
trông ngóng mẹ về để thông báo sự kiện trọng đại của đời anh, Tràng bước từng
bước dài ra sân và thỉnh thoảng nhìn trộm người vợ nhặt ngồi trong nhà, anh băn
khoăn về nét mặt bần thần của cô ấy nhưng bao trùm hơn cả là niềm hạnh phúc đang xôn xao trong lòng anh, anh nhớ về hai bận tầm phơ tầm phào thế mà có vợ rồi tủm tỉm cười một mình.
- Niềm vui
cảm động của anh sau một ngày có vợ. Anh nhìn sự thay đổi của quang cảnh ngôi
nhà, nhìn sự hoà hợp của hai người đàn bà đang dọn dẹp nhà cửa, thấy sự thay đổi ở mẹ và vợ, anh xúc động vô
cùng. Anh thấy có một niềm vui phấn chấn, hạnh phúc tràn ngập trong lòng. Anh
thấy anh trưởng thành hơn, thấy yêu thương, gắn bó với ngôi nhà của anh lạ lùng, anh nhận ra trách nhiệm của mình với ngôi nhà, với gia đình, với vợ
con sau này…
* Diễn tả
tâm trạng bà cụ Tứ - mẹ của Tràng - rất chân thực:
-Từ ngạc
nhiên, phấp phỏng đến mừng, tủi, thương, lo: bà ngạc nhiên khi thấy con mong ngóng, đặc biệt ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà lạ
trong nhà, ngồi ở đầu giường thằng con trai bà, lại con chào bà bằng “u”. Và khi nghe con giới thiệu vợ thì
lòng người mẹ ngổn ngang bao nhiêu là cơ sự. Bà hiểu ra tất cả mọi chuyện, bà “cúi đầu nín lặng”, cái cúi đầu nín lặng
ấy chất chứa bao nỗi niềm: có nỗi tủi phận, có sự cam chịu, có niềm xót xa.
+ Bà mừng vì
con bà vốn không dễ lấy vợ, nay lại đã có vợ, có một gia đình, có hạnh phúc lứa
đôi.
+ Bà tủi vì
bổn phận làm mẹ mà không lo được cho con, “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”, bao nhiêu ngập ngừng tủi cực chua
xót dồn nén sau chữ “thì…” vô vọng ấy. Những giọt nước mắt từ trong sâu thẳm trái
tim của người già đã không kìm nổi. Bà rơi vào tình cảnh không thể lựa chọn
được. Bà rất khó xử vì lấy vợ cho con là việc trọng đại, thiêng liêng cần được
tiến hành một cách trang trọng theo phong tục của quê hương, theo truyền thống
văn hoá của dân tộc nhưng bà thì không có nổi mâm cơm mà cúng trình tiên tổ và
báo cáo dân làng.
+ Thương cho
con trai và con dâu. Nhìn người con dâu ngoan ngoãn đứng im một chỗ tay vân vê
tà áo đã rách bợt, trong lòng bà thức dậy bao tình yêu thương, trong đó có cả
sự hàm ơn. Thương con trai lấy vợ vào giữa lúc đói quay đói quắt, sự sống rất
mong manh, thương cho người con dâu gặp bước khó khăn khổ sở này mới lấy đến
con bà mà con bà mới có vợ được. Từ độc thoại nội tâm bà chuyển sang nhắc nhở
con dâu, nhưng cũng là lời giãi bày tâm sự. Bà tâm sự về gia cảnh để con dâu
hiểu hơn mà thông cảm mà yêu thương, gắn bó với gia đình. Bà đã nói với con dâu bằng tất cả
tấm tình của một người mẹ nghèo, giàu lòng nhân ái và thương con rất mực. Những
lời nói của bà như ngượng ngập, vụng về nhưng rất chân thực và trải đời: “Chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u
cũng mừng lòng”; “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Những lời tâm
sự ấy cho thấy bà đã chấp nhận người đàn bà xa lạ kia và đón nhận người con dâu
mà con trai mình “nhặt” về; đã không
còn ranh giới giữa mẹ chồng với nàng dâu nữa mà chỉ còn tình thân, còn niềm
khao khát sống, khao khát về hạnh phúc của con cái. Đó là tình thương yêu con,
thương yêu con người sâu thẳm của người mẹ già đã trải qua nhiều nỗi đau trong
cuộc đời.
+ Lo lắng
cho con không biết chúng có vượt qua được nạn đói này không.
- Bà quên đi
đói khổ trước mắt mà vui mừng thu xếp cuộc sống mới. Bà cùng người con dâu dọn
dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, mới mẻ hơn, bởi dường như mọi người cũng có chung suy
nghĩ: thu xếp nhà cửa cho quang quẻ thì có cơ khấm khá hơn, cuộc sống sẽ mới
hơn. Bà say sưa phác hoạ tương lai bằng một niềm tin mãnh liệt: “ai giàu ba họ,
ai khó ba đời”. Trong bữa cơm ngày đói dù rằng rất tội nghiệp, chỉ là nỗi cháo
loãng lóng bõng với một lùm rau chuối thái rối và một chút muối để giữa cái mẹt
rách, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà vẽ ra một tương lai không quá tầm với của
mỗi người: mua một đôi gà và hi vọng về một đàn gà con, cuộc sống tiến lên từng
bước mới mẻ như vậy.
* Diễn tả
rất tinh tế sự thay đổi tính cách của người vợ nhặt qua những cử
chỉ, hành động của chị. Khi được Tràng đồng ý cho theo về và khi được mẹ chồng
chấp nhận và đón nhận bằng tất cả tình thương, sự cưu mang đùm bọc thì cô đã
trở nên khác hẳn, chất nữ tính trước đây bị cái đói tước mất thì nay lại trở về
nguyên vẹn. Dẫu có phần thất vọng về gia
cảnh của Tràng nhưng người vợ nhặt vẫn vui vẻ chấp nhận cuộc sống mới, thực
hiện vai trò của người vợ, người con dâu trong gia đình.
- Trên đường
về cùng Tràng, người vợ nhặt đã trở nên một người phụ nữ thực sự. Chị ngượng
ngùng, e thẹn khi những người trong xóm ngụ cư tò mò, phán đoán đến mức chân nọ
bước ríu cả vào chân kia. Lúc chỉ có hai người trên đoạn đường về nhà, chị ấy
đã thân mật với Tràng nhưng không suồng sã, thô tục.
- Khi về đến
nhà Tràng, chứng kiến gia cảnh của Tràng, một ngôi nhà vắng teo, rúm ró, xiêu
vẹo trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại, cô có phần thất vọng
nhưng cố nén nỗi lòng –“cái ngực gầy lép nhô hẳn lên nén một tiếng thở dài” –
không muốn để cho Tràng – “người chồng” – buồn lo, băn khoăn; khi đón nhận bát
cháo cám từ tay người mẹ chồng, cô thoáng xót tủi, đôi mắt tối lại nhưng cô điềm
nhiên và vào miệng. Cử chỉ “điềm nhiên và vào miệng” miếng cháo cám đắng
chát là một cử chỉ rất đẹp, đáng quý. Điều
đó cho thấy cô không chỉ hiểu về hoàn cảnh, số phận mình mà con thấu hiểu và cảm
thông cuộc sống của gia đình chồng và cô vui vẻ đón nhận nó.
- Khi thực
sự xác định vai trò, vị trí của mình trong gia đình chồng, ý thức về hoàn cảnh,
cuộc sống, cô đã trở nên một người đàn bà dịu hiền, đảm đang chứ không còn vẻ
gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ngoài tỉnh.
- Cô còn gợi
ra tính chất cách mạng qua việc người dân phá kho thóc Nhật chia cho người đói
để từ đó gieo vào trí óc Tràng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, gieo
vào trí nghĩ của Tràng niềm tin, niềm hi vọng thay đổi cuộc sống. Hình ảnh kết
thúc truyện thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng, khát vọng thay đổi cuộc
sống theo hướng tích cực. Đó vừa là niềm tin của nhân vật nhưng cũng đồng thời
là niềm tin củ chính tác giả, là tình yêu thương sâu sắc mà tác giả dành cho
nhân vật của mình.
=>Thông
qua cảm xúc, tâm trạng, sự thay đổi của Tràng, ba cụ Tứ, người vợ nhặt, nhà văn
Kim Lân khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống và khát
vọng hạnh phúc mãnh liệt của con người trong hoàn cảnh éo le.
3. Tác phẩm “Vợ nhặt” còn nói lên tiếng nói tố cáo
tội ác của bọn phát xít, thực dân gây ra nạn đói cho con người khiến số phận
con người trở nên bi thảm, sự sống đặt bên cạnh cái chết, sự sống bị đe doạ bởi
cái chết. Người chết như ngả rạ, người sống như những bóng ma. Tiếng quạ gào
lên từng hồi thê thiết. Không gian bị bao trùm bởi cái đói và cái chết nên
không có dấu hiệu của sự sống. Ngay trong đêm đầu tiên của Tràng và người vợ
nhặt, của cặp vợ chồng mới cưới mà cũng xen vào tiếng ai hờ khóc những người
chết cứ tỉ tê não nuột, xót xa. Nạn đói đã khiến cho cái giá của con người trở
nên rẻ rúng đến mức một người con gái có thể theo không một người đàn ông xa lạ
về. Nạn đói khiến cho ai nấy đều hốc hác, bủng beo, u ám. Và đến bữa cơm đón
nàng dâu mới của ai đó (gia đình Tràng) cũng đầy tủi thẹn, đắng chát…
NGUYÊN HẠNH - CẨM LINH DƯƠNG